Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

  Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946), Hiệp định Giơnevơ (21 - 7 - 1954) và Hiệp định Pari (27 - 1 - 1973) ? Khái quát quá trình đấu tranh của nhân dân ta để từng bước giành các quyền dân tộc cơ bản sau mỗi hiệp định trên.

-  Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong tuyên ngôn độc lập ngày 2 – 9 – 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Việt Nam đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập và toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

-                      - Trước những khó khăn của ViệtNamsau cách mạng tháng Tám, nhất là âm mưu thôn tính trở lại của Pháp. Để đẩy nhanh quân đội Trung Hoa Dân quốc về nước, ngăn chặn một cuộc chiến tranh quá sớm và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946). Theo đó, Chính phủ Pháp công nhân Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, là thành viên của Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.




-                      - Như vậy, Hiệp định này chỉ công nhân tính thống nhất (là một quốc gia), nhưng chưa công nhận nền độc lập. Việt Nam còn bị ràng buộc vào Pháp.

-   Hiệp định trên không được thực dân Pháp tôn trọng. Chúng lập ra chính phủNamkì tự trị, âm mưu táchNamkì khỏi ViệtNam. Mặt khác, chúng tiếp tục bám giữ lập trường thực dân, nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự, xóa bỏ nền độc lập mà dân ta mới giành được.

-         - Nhân dân Việt Nam phải tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh, giành thắng lợi trong các chiến dịch Việt Bắc 1947, Biên giới 1950…kết thúc bằng cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch ĐBP, đưa đến việc kí kết Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương.

-                         Với  - Hiệp định Giơnevơ 1954, thực dân Pháp buộc phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

       Tuy nhiên, sau Hiệp định Giơnevơ 1954, ViệtNamđã không được  thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử dự định tổ chức vào tháng 7/1956 như đã cam kết trong hiệp định mà bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc được giải phóng tiến lên CNXH. Miền Nam Mĩ thay chân Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta.

-   Nhân dân Việt Nam phải tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng, từ phong trào “Đồng khởi” tiến lên làm thất bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mĩ ở miền Nam từ “đặc biệt” đến “cục bộ” cho đến “Việt Nam hóa” và chiến tranh phá hoại miền Bắc. buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

-         - Hiệp định Pari (1973) ghi rõ: Hoa kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Hoa kì rút hết quân viễn chinh khỏi miền Nam Việt Nam. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta. Ta đã “đánh cho Mĩ cút”, “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miềnNam.


 - Mặc dù cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam và rút quân viễn chinh về nước, nhưng Mĩ vẫn chưa từ bỏ chính sách thực dân mới ở miền Nam, cùng chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari, tiếp tục chia cắt đất nước.

-         - Nhân dân Việt Nam phải tiếp tục đấu tranh chống kẻ thù phá hoại Hiệp định Pari, tạo thế và lực mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.

       Qua 30 năm chiến tranh chống thực dân cũ và mới (1945 – 1975), giành thắng lợi từng bước tiến lên thắng lợi hoàn toàn, nhân dân ta đã giành được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quyền dân tộc của ViệtNamđược thực hiện trọn vẹn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét