GIAI ĐOẠN 1930-1945
Câu 49: Trình bày cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 và những tác động của nó đối với xã
hội Việt Nam.
Trong giai đoạn 1929 – 1933, các nước tư bản chủ nghĩa
nói chung và đế quốc Pháp nói riêng lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nặng
nề. Cuộc khủng hoảng đã tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam:
+ Thực dân Pháp rút vốn đầu tư ở Đông Dương về các ngân
hàng Pháp và dùng ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho tư bản Pháp => Sản xuất
công nghiệp ở Việt Nam bị thiếu vốn dẫn đến đình trệ.
+ Lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá làm cho lúa
gạo Việt Nam không xuất khẩu được => Ruộng đất bị bỏ hoang.
Hậu quả là nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng; Ruộng đất bỏ hoang, công nghiệp suy sụp, xuất khẩu đình
đốn..., làm cho đời sống của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khốn
cùng:
§ Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số người có
việc làm thì tiền lương bị giảm từ 30 đến 50%.
§ Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy
mô lớn.
§ Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ
đóng cửa, viên chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.
§ Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó
khăn do không thể buôn bán và sản xuất.
Thêm vào đó, thực
dân Pháp còn tăng sưu thế lên gấp 2, 3 lần và đẩy mạnh chính sách khủng bố
trắng hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam… làm cho cuộc sống của người
dân lao động khốn khổ đến tột cùng.
Câu 50: Trình bày phong
trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh.
-
Từ tháng 2 đến tháng 4/1930 là bước khởi đầu của phong trào với ba
cuộc bãi công tiêu biểu của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, 4.000
công nhân nhà máy sợi Nam Định và 400 công nhân nhà máy Cưa và nhà máy
Diêm Bến Thuỷ.
-
Tháng 5/1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1 – 5 – 1930
lần đầu tiên nhân dân Việt Nam kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động. Khắp nơi
diễn ra các hình thức đấu tranh để kỉ niệm như mít tinh, biểu tình, bãi công,
bãi khoá, bãi thị, treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn, căng khẩu hiệu… Tiêu
biểu nhất là cuộc đấu tranh của 5000 công nhân và nông dân khu vực thành phố
Vinh, đòi tăng tiền lương, bớt giờ làm, chống sưu thuế…
-
Trong nửa sau năm 1930, phong trào tiếp tục nổ ra ở nhiều nơ:
+
Bãi công của công nhân nổ ra ở hầu khắp các cơ sở kinh tế của tư bản
Pháp.
+
Phong trào nông dân bùng nổ dữ dội chưa từng thấy. Ở Bắc Kì có các
cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Duy Tiên (Hà Nam).Ở Trung Kì,
có các cuộc đấu tranh của nông dân Đức Phổ, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). Ở Nam Kì, có
cuộc đấu tranh ở Bà Chiểu (Sài Gòn – Chợ Lớn)….
+
Ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, phong trào nông dân tiép tục
lên cao với những cuộc biểu tình lớn có vũ trang tự vệ, kéo đến
huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu thuế, như nông dân các huyện Nam Đàn, Nghi Lộc,
Hưng nguyên, Quỳnh Lưu, Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Kì Anh…
+
Tiêu biểu nhất là cuộc biểu tình ngày 12/9/1930 của nông dân Hưng
Nguyên (Nghệ An) kéo đến huyện lị, phá nhà lao, đốt huyện đường, vậy lính khố
xanh, ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Bến Thuỷ.
+
Chính quyền thực dân bị tê liệt, tan rã ở nhiều nơi. Chính
quyền cách mạng được thành lập ở nhiều vùng nông thôn thuộc hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh.
-
Từ cuối năm 1930, khi chính quyền Xô viết ra đời, thực dân Pháp tập trung
lực lượng đàn áp, kết hợp sử dụng bạo lực với những thủ doạn lừa bịp về chính
trị. Phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề. Một số cuộc đấu tranh lẻ tẻ còn
kéo dài sang năm 1931 thì kết thúc.
c. Xô
viết Nghệ – Tĩnh
-
Trong các tháng 9 và 10 – 1930, trước khí thế cách mạng của quần chúng, bộ máy
chính quyền địch ở nhiều nơi tan rã. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, Ban
Chấp hành Nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông
thôn, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động, làm
chức năng, nhiệm vụ của một chính quyền nhà nước dưới hình thức các uỷ ban tự
quản theo kiểu Xô viết.
-
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời tháng 9/1930. Ở Hà Tĩnh,
Xô viết hình thành cuối năm 1930 đầu năm 1931, thực hiện nhiều chính sách
tiến bộ:
+
Về chính trị, thực hiện rộng rãi các quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân. Quần chúng được tham gia các đoàn thể, tự do hội họp. Các đội tự
vệ đỏ, tòa án nhân dân được thành lập.
+
Về kinh tế, chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân cày nghèo, bãi
bỏ các thứ thuế vô lý; chú trọng đắp đê phòng lụt, tư
sửa cầu cống, đường giao thông; tổ chức giúp đỡ nhau sản xuất.
+
Về văn hóa- xã hội: mở các lớp dạy chữ quốc ngữ, xóa bỏ các tệ
nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới…
-
Xô viết Nghệ - Tĩnh là mẫu hình chính quyền cách mạng đầu
tiên ở Việt Nam, một chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các Xô viết
được thành lập và thực thi những chính sách tiến bộ chứng tỏ rằng Xô viết Nghệ
– Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931.
Câu 51: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của
phong trào 1930 – 1931.
-
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 là một phong trào cách mạng đầu tiên
do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Đó là một phong trào cách mạng triệt để,
diễn ra trên qui mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những
hình thức đấu tranh phong phú và quyết liệt. Đây là một bước phát triển nhảy
vọt về chất so với những phong trào yêu nước trước kia.
-
Mặc dù cuối cùng bị kẻ thù dìm trong biển máu nhưng phong
trào vẫn có ý nghĩa to lớn:
+
Khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và quyền lãnh đạo cách
mạng của giai cấp công nhân. Qua thực tiễn đấu tranh, quần chúng nhân dân
tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
+
Khẳng định vai trò của khối liên minh công nông. Công nhân, nông dân đã đoàn
kết đấu tranh và tin vào sức mạnh của chính mình.
+
Đội ngũ cán bộ và đảng viên và quần chúng yêu nước được tôi luyện và trưởng
thành. Phong trào đã rèn luyện lực lượng cho cách mạng về sau.
+
Được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế cộng
sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là bộ phận độc lập, trực thuộc
quốc tế cộng sản.
+ Đây
là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về
sau của cách mạng Việt Nam. Nếu không có phong trào cách mạng 1930 – 1931,
trong đó quần chúng công, nông đã vung ra một nghị lực cách mạng phi thường thì
không thể có thắng lợi của phong trào dân chủ 1936 – 1939 và Cách mạng Tháng
Tám.
-
Phong trào để lại cho Đảng nhiều bài học kinh nghiệm
quý giá về công tác tư tưởng, về chỉ đạo chiến
lược, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về
tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Câu 52: Chứng minh rằng chính Xô Viết Nghệ
Tĩh là hình thái sơ khai của chính quyền công – nông ở nước ta là chính quyền
cách mạng thực sự của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng?
-
Trong các tháng 9 và 10 – 1930, trước khí thế cách mạng của quần chúng, bộ máy
chính quyền địch ở nhiều nơi tan rã. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, Ban
Chấp hành Nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông
thôn, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động, làm
chức năng, nhiệm vụ của một chính quyền nhà nước dưới hình thức các uỷ ban tự
quản theo kiểu Xô viết.
-
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời tháng 9/1930. Ở Hà Tĩnh,
Xô viết hình thành cuối năm 1930 đầu năm 1931, thực hiện nhiều chính sách
tiến bộ:
+
Về chính trị, thực hiện rộng rãi các quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân. Quần chúng được tham gia các đoàn thể, tự do hội họp. Các đội tự
vệ đỏ, tòa án nhân dân được thành lập.
+
Về kinh tế, chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân cày nghèo, bãi
bỏ các thứ thuế vô lý; chú trọng đắp đê phòng lụt, tư
sửa cầu cống, đường giao thông; tổ chức giúp đỡ nhau sản xuất.
+
Về văn hóa- xã hội: mở các lớp dạy chữ quốc ngữ, xóa bỏ các tệ
nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới…
-
Xô viết Nghệ - Tĩnh là mẫu hình chính quyền cách mạng đầu
tiên ở Việt Nam, một chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các Xô viết
được thành lập và thực thi những chính sách tiến bộ chứng tỏ rằng Xô viết Nghệ
– Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931.
Câu 53:
Tình hình thế giới và trong nước sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 –
1933 diễn ra như thế nào? Nêu chủ trương chiến lược của Đảng ta trước tình hình
đó.
1. Tình hình thế giới và
nước Pháp
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã đẩy các
nước tư bản phát triển muộn và có ít thuộc địa đi đến con đường phát xít hoá bộ
máy chính quyền để trấn áp phong trào cách mạng trong nước và chuẩn bị gây
chiến tranh phân chia lại thế giới. Trong đó, tiêu biểu là chủ nghĩa phát xít
Đức, Ý, Nhật...
Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít đã trở thành một mối
nguy cơ không những đe doạ các nước đế quốc mà còn đe dọa trực tiếp đến nền hòa
bình và an ninh quốc tế.
Đứng trước nguy cơ đó, Đại hội 7 của Quốc tế cộng sản
(7/1935) xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa
phát xít và đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân để chống chủ nghĩa
phát xít và nguy cơ chiến tranh.
Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng xã hội làm nòng
cốt được nhân dân ủng hộ đã lên cầm quyền. Chính phủ mới này đã thực hiện nới
rộng quyền tự do dân chủ cho các nước thuộc địa.
2. Tình hình trong nước
Hậu quả của cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 vẫn tiếp tục kéo
dài, thêm vào đó là khủng bố trắng kéo dài... làm cho cuộc sống của đa số người
dân vào cảnh khó khăn, cơ cực, tạo nên động lực thúc đẩy họ tham gia các phong
trào đấu tranh.
Chủ trương nới rộng quyền tự do dân chủ cho các nước
thuộc địa của chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã mang lại nhiều điều kiện
thuận lợi mới cho cách mạng Việt Nam:
+ Một số tù chính trị ở Việt Nam được trả tự do đã tìm
cách hoạt động trở lại.
+ Chính phủ Pháp chủ trương tiến hành điều tra tình hình
thuộc địa ở Đông Dương.
3. Chủ trương của Đảng
Căn cứ tình hình trên và đường lối của Quốc tế cộng sản,
Đảng Cộng Sản Đông Dương đã nhận định rằng: “Kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này
không phải là thực dân Pháp nói chung, mà là bọn thực dân phản động Pháp”.
Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ trước mắt là “Chống phát
xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi
tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình”; tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đuổi đế
quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập”.
Đảng đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương,
đến tháng 3/1938 đổi tên thành Mặt
trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu
nước, dân chủ, tiến bộ đứng lên đấu tranh chống Phát xít, đế quốc Pháp phản
động.
Hình thức đấu tranh: hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai,
nửa công khai.
Câu 54: Trình bày những
nét chính vè phong trào dân chủ 1936 – 1939.
Giữa năm 1936, được tin Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp
cử một phái đoàn sang điều tra tình hình thuộc địa Đông Dương, Đảng đã phát
động một phong trào đấu tranh công khai:
Mở đầu
là cuộc vận động lập Ủy Ban trù bị Đông Dương Đại hội, nhằm thu thập nguyện vọng của quần chúng để đưa lên
Chính phủ Pháp.
Quần chúng khắp nơi đã sôi nổi tổ chức hội họp diễn
thuyết, lấy chữ kí và đưa ra các yêu sách; Đòi Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp
trả lại tự do cho tù chính trị, đòi thực hiện ngày làm 8 giờ, trả lương các
ngày nghỉ... Nhưng sau đó phái đoàn này
không sang.
Phong
trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, dân sinh: Năm 1937, nhân dịp đón phái viên Chính phủ Pháp và toàn
quyền mới xứ Đông Dương; Quần chúng nhân dân trong đó đông đảo và hăng hái nhất
là công nhân và nông dân đã tổ chức nhiều cuộc mittinh, biểu tình để đưa dân
nguyện đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời sống (ở nông thôn và thành thị).
Bên cạnh những hoạt động trên, phong trào bãi công, bãi
thị, bãi khoá... đã nổ ra mạnh mẽ ở các thành phố, khu mỏ và đồn điền:
+ Năm 1936, tổng bãi công của công ty than Hòn Gai.
+ Năm 1937, bãi công của công ty xe lửa Trường Thi.
+ Năm 1938 (01/5), một cuộc mittinh lớn của 2,5 vạn người
đã diễn ra tại Quảng trường nhà đấu xảo Hà Nội, với các khẩu hiệu: “Tự do lập
hội Ái hữu, nghiệp đoàn, giảm thuế, chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
ủng hộ hòa bình...”.
Cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận nhân Pháp hạn chế dần
các chính sách tự do dân chủ => Thực dân Pháp ở Đông Dương đã trở lại chính
sách ngăn cấm các hoạt động dân chủ và đàn áp các phong trào đấu tranh.
Đảng đã nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, thu hẹp
phong trào đấu tranh công khai và đến tháng 9/1939 thì chấm dứt hẳn để bảo toàn
lực lượng, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới.
3. Kết quả và ý nghĩa
lịch sử
Lợi dụng thời cơ thuận lợi, Đảng đã lãnh đạo quần chúng
và phát động một phong trào đấu tranh công khai, bán công khai mạnh mẽ và rộng
lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng.
Tổ chức Đảng có điều kiện để cũng cố và phát triển sau
khi phục hồi, tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai… Đồng
thời Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân
tộc…
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các chủ trương, đường lối của Đảng
đã được phổ biến, tuyên truyền một cách rộng rãi và công khai trong một thời
gian dài thông qua sách báo và các hoạt động khác của phong trào dân chủ.
Đặc biệt, Đảng đã tập hợp được một lực lượng đông đảo
quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam sau này.
Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc diễn tập
thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám - 1945.
Câu 55: So sánh phong trào cách mạng 1930 – 1931 với Phong trào cách
mạng 1936 - 1939?
Câu 56: Hoàn cảnh lịch
sử, nội dung và ý nghĩa của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939).
1.
Hoàn
cảnh lịch sử
Ngày 01/9/1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới
thứ hai.
Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Pháp chính thức lâm chiến.
Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng cộng sản
Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.
Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm tuyên truyền cộng
sản, giải tán các tổ chức chính trị và đóng cửa các tờ báo tiến bộ, tiến hành
khám xét và bắt giam hàng nghìn đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng thời,
chúng còn vơ vét, bóc lột nhân dân Đông Dương và ra lệnh tổng động viên nhằm
bắt thanh niên Việt Nam đưa sang Pháp tham gia chiến tranh.
Những chính sách đó đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp lên cao và đòi hỏi Đảng ta phải thay đổi sách lược đấu tranh cho phù
hợp.
2. Hội nghị TW 6 (11/1939) và chủ trương chuyển
hướng chiến lược của Đảng.
Trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước trong giai đọan
chiến tranh mới bùng nổ, Trung ương Đảng đã nhanh chóng ra chỉ thị rút vào hoạt
động bí mật và tạm đình chỉ các cuộc biểu tình để bảo toàn lực lượng.
Ngày 6/11/1939, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã diễn ra tại Bà Điểm – Hóc Môn.
Hội nghị nhận định: Chế độ cai trị ở Đông Dương sẽ trở thành chế độ phát xít tàn bạo, các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội Đông Dương đều bị chính sách của chính quyền
thực dân làm điêu đứng, mâu thuẫn giữa mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam với chính
quyền thực dân sẽ trở nên gay gắt, đẩy tinh thần chống đế quốc, giải phóng dân
tộc lên cao.
Hội nghị xác định nhiệm vụ,
mục tiêu đấu tranh trước mắt là: đánh đổ đế quốc tay
sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hội nghị chủ trương:
+ Tạm gác lại khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu chống địa tô cao, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ
tay sai chia cho dân cày nghèo.
+ Thay khẩu hiệu “Thành lập
chính quyền Xô Viết công nông” bằng khẩu hiệu “Chính phủ cộng hòa dân chủ”.
+ Đưa ra chủ trương thành lập Mặt
trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về phương pháp đấu tranh: Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính
quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động
bí mật và bất hợp pháp.
Hội nghị còn khẳng định: chiến tranh đế quốc và họa phát xít sẽ làm cho nhân dân phẫn uất và
cách mạng sẽ bùng nổ.
3. Ý nghĩa lịch sử
Hội nghị đã đánh dấu sự mở đầu cho việc thay đổi chủ trương chiến lược
của Đảng: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tăng cường mặt trận dân tộc
thống nhất.
Thể hiện sự nhạy bén và sáng tạo của Đảng trong việc nắm bắt tình hình,
kịp thời tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, mở đường đi tới thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1945.
Câu 57: Tình cảnh của thực dân Pháp ở Đông
Dương sau năm đầu tiên của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Tháng 6/1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức => Thực dân Pháp ở
Đông Dương bị yếu thế.
Ở Viễn Đông, phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt – Trung và giúp Xiêm
gây xung đột ở biên giới Lào và Campuchia, uy hiếp thực dân Pháp ở Đông Dương.
Đồng thời ở trong nước, phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang đe
doạ trực tiếp đến thực dân Pháp.
Thực dân Pháp phải đối mặt cùng một lúc hai nguy cơ: bị tiêu diệt bởi
lực lượng cách mạng Đông Dương và bị phát xít Nhật hất cẳng.
Để đối phó, chúng đã một mặt thỏa hiệp với phát xít Nhật: 6/1940, Nhật
buộc Pháp đóng cửa biên giới Việt – Trung; tháng 8/1940, Pháp kí hiệp ước chấp
nhận cho Nhật nhiều đặc quyền ở Đông Dương; tháng 9/1940, cho Nhật dùng 3 sân
bay ở Bắc Kì (Gia Lâm, Cát Bi và Phủ Lạng Thương) và sử dụng các con đường ở
Bắc kì để chuyển quân vào Trung Quốc.
Mặt khác chúng đã thực hiện chính sách bắt lính, đàn áp, khủng bố cách
mạng, tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương để tạo sức mạnh đối phó
với phát xít Nhật.
ð
Nhân dân ta sống trong cảnh
bần cùng, ngột ngạt, đẩy tinh thần cách mạng lên cao và đã làm bùng nổ một số
cuộc khởi nghĩa.
Câu 58: Tình hình Đông Dương sau khi Nhật nhảy vào như thế nào?
1. Pháp câu kết với phát xít
Nhật để bóc lột nhân dân Đông Dương
Trong thế bị suy yếu, thực dân Pháp đã chấp nhận nhượng bộ phát xít Nhật
để duy trì quyền lợi của mình. Đồng thời Nhật cũng muốn tạm thời sử dụng bộ máy
thống trị của Pháp để bóc lột nhân dân Đông Dương:
Ngày 23/7/1941, Pháp kí với Nhật hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương,
cho Nhật có quyền đóng quân trên toàn cõi Đông Dương.
Ngày 29/7/1941, Pháp đồng ý cho Nhật sử dụng tất cả các sân bay và cửa
biển của Đông Dương vào mục đích quân sự.
Ngày 7/12/1941, Nhật lại buộc Pháp kí hiệp ước cam kết cung cấp lương
thực, bố trí doanh trại...cho quân Nhật.
Pháp chấp nhận “mở cửa” cho các công ty của Nhật tự do đầu tư vào Đông
Dương.
2. Những
thủ đoạn bóc lột của Nhật
Sau khi buộc Pháp phải nhượng bộ, các công ty tư bản của Nhật bắt đầu
đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương để khai thác nguồn tài nguyên và thị trường Đông
Dương.
Mặt khác, Nhật gián tiếp bóc lột nhân dân ta bằng cách buộc Pháp phải
cung cấp các nhu yếu phẩm (gạo, ngô,...) cho chúng, bắt dân ta phải nhổ lúa để
trồng đay và thầu dầu…
3. Những hoạt động bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp
Để đáp ứng những yêu cầu của Nhật và đảm bảo được quyền lợi như trước
đây, thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để bóc lột nhân dân ta:
+ Thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”. Tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế
mới… đồng thời sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm,
kiểm soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả.
+ Tiến hành thu mua thực phẩm mà chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức
với giá rẻ mạt, làm cho lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng.
Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy dân ta tới cảnh cùng
cực. Hậu quả là cuối năm 1944, đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào ta ở miền Bắc
bị chết đói.
4. Nhật – Pháp ra sức chuẩn bị để hất cẳng nhau
4.1. Những thủ đoạn chính trị lừa bịp của
Nhật
Việc duy trì bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ là một
giải pháp tình thế nhằm che giấu bộ mặt xâm lược của phát xít Nhật. Đồng thời
lợi dụng thực dân Pháp để đàn áp và bóc lột nhân dân Đông Dương.
Để thực hiện âm mưu thống trị Đông Dương lâu dài, phát xít Nhật đã tìm
cách xây dựng lực lượng tay sai của mình để đi đến thành lập chính quyền tay
sai nhằm thay thế và loại bỏ thực dân Pháp:
+ Ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, thuyết “Đồng văn đồng chủng”,
tuyên truyền văn hoá và sức mạnh vô địch của Nhật và hứa hẹn trao trả độc lập
cho Việt Nam.
+ Bí mật tập hợp những phần tử bất mãn với Pháp như Trần Trọng Kim,
Nguyễn Xuân Chữ… để lập ra hàng loạt các đảng phái thân Nhật: Đại Việt dân
chính, Đại Việt quốc xã, Việt Nam ái quốc...
+ Nhật thành lập “Việt Nam phục quốc đồng minh hội” để tập hợp các tổ
chức, đảng phái thân Nhật, chuẩn bị thành lập một chính phủ bù nhìn và “trao
trả độc lập” cho Việt Nam, gạt Pháp ra khỏi Đông Dương.
4.2. Những thủ đoạn lừa bịp của Pháp
Trong tình thế lực lượng bị suy yếu, thực dân Pháp một mặt phải cam chịu
khuất phục Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, nhưng mặt khác chúng lại
ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội lật lại tình thế:
Thứ nhất, tiếp tục khủng bố, đàn áp cách mạng để giữ vững quyền thống
trị.
Thứ hai, tiến hành nhiều chính sách lừa bịp để nhân dân ta lầm tưởng
chúng là bạn chứ không phải là thù:
+ Cho một số người Việt thuộc giới
thượng lưu nắm giữ một số chức vụ quan trọng để ràng buộc họ với Pháp.
+ Mở thêm một vài trường cao đẳng (khoa
học, kiến trúc, nông lâm…), lập Đông Dương học xá cho một số sinh viên lưu trú
nhằm dụ dỗ, lôi kéo thanh niên.
+ Tạo điều kiện, hỗ trợ các nhóm thân
Pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, lôi kéo quần chúng ủng hộ chủ trương
“Pháp - Việt phục hưng”, để chống lại phát xít Nhật...
+ Khuấy động một phong trào
thanh niên giả tạo nhằm lôi kéo thanh niên xa rời nhiệm vụ cứu nước.
Tháng 3/1945, quân đội Nhật ở Thái Bình Dương lâm vào tình trạng nguy
cấp, Nhật đã đảo chính Pháp (9/3/1945) và độc chiếm Đông Dương.
5. Tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp
bức Pháp - Nhật
Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp và Nhật, đã đẩy các tầng lớp
nhân dân nói chung, đặc biệt là nông dân, lâm vào cảnh khốn cùng:
Giai cấp nông dân: Do bị cưỡng bức thu mua lương thực, phải nhổ lúa trồng đay, sưu cao thuế
nặng..., nên đời sống cơ cực. Phần lớn họ là nạn nhân của trận đói làm 2 triệu
người chết cuối năm 1944 đầu 1945.
Giai cấp công nhân: Thường xuyên bị cúp phạt, giảm lương, tăng giờ làm..., trong khi đó giá
cả sinh hoạt lại tăng cao làm cho cuộc sống của họ rất khó khăn.
Các tầng lớp tiểu tư sản: Cuộc sống bấp bênh, không có lối thoát.
Giai cấp tư sản và địa chủ: Phần lớn bị sa sút nghiêm trọng và phá sản hàng loạt.
Tóm lại: dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật, đời sống của đại đa số người dân
Việt Nam lâm vào cảnh cùng bần, điêu đứng, lòng căm thù giặc của họ sôi sục,
nếu được lãnh đạo, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đứng lên tiêu diệt kẻ thù.
Câu 59: Trình bày bối cảnh lịch sử, nội dung
và ý nghĩa của hội nghị TW 8.
Hội
nghị Trung ương 8
1. Bối cảnh
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày một lan rộng.
Thực dân Pháp đầu hàng và liên kết với phát xít Nhật thống trị nhân dân
Đông Dương làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với bọn Nhật – Pháp và
đồng thời mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt.
2. Hội nghị Trung ương 8 (10 - 19/5/1941)
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Sau khi nghiên cứu sự biến đổi của tình hình trong nước và quốc
tế, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pác Bó (Cao Bằng)
từ ngày 10 đến 19/5/1941.
Hội nghị khẳng định chủ trương đúng đắn của Hội nghị Trung ương 6 và Hội
nghị Trung ương 7 và nhận định: mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách đó
là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc – phát xít Pháp - Nhật; “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn
hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc” và đưa ra chủ trương:
phải giải phóng Đông Dương ra khỏi ách thống trị của Pháp - Nhật.
Hội nghi quyết định:
+ Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh
đổ địa chủ, phong kiến, chia ruộng đất cho dân cày” và thay vào đó là
các khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức”...
+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho Việt Nam: Việt Nam độc lập đồng minh - Việt Minh, bao gồm các tổ chức
quần chúng lấy tên là Hội cứu quốc...
+ Chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.
3. Ý nghĩa
Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách
lược đề ra từ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939):
+ Giương cao hơn nữa và đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương.
+ Chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Câu 60 : Trình bày quá trình chuẩn bị lực
lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
1. Tập hợp quần chúng và xây dựng lực lượng
chính trị
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập bao gồm các Hội
cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ lão
cứu quốc...để tập hợp quần chúng nhân dân.
Năm 1943, Đảng đã ra Đề cương văn hoá Việt Nam.
Cuối năm 1944, lập Hội Văn hoá cứu quốc và Đảng dân chủ Việt Nam nằm
trong lực lượng Việt Minh nhằm tập hợp lực lượng học sinh, sinh viên, tri thức,
tư sản dân tộc; tăng cường công tác địch vận…
Ngoài ra Đảng còn ra nhiều ấn phẩm báo chí để tuyên truyền, vận động
quần chúng tham gia cách mạng.
* Kết quả:
+ Năm 1942, khắp 9 Châu của Cao Bằng đều có Hội cứu quốc, Ủy Ban Việt
Minh tỉnh Cao Bằng và sau đó là Ủy Ban lâm thời Cao - Bắc - Lạng được thành
lập.
+ Năm 1943, Ủy Ban Việt Minh Cao - Bắc - Lạng đã lập ra 19 đội quân xung
phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các
tỉnh miền xuôi.
2. Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa
cách mạng
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một bộ phận lực lượng vũ trang đã chuyển thành
các đội du kích hoạt động ở vùng căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai. Đến năm 1941, những
đội du kích này đã thống nhất thành Cứu quốc quân.
Sau tháng 2/1942, Cứu quốc quân phân tán thành nhiều bộ phận để gây dựng
cơ sở ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15/9/1941, đội cứu quốc quân 2
ra đời.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng, tại Hội nghị Trung ương 7 (11/1940)
Đảng đã chọn Bắc Sơn – Vũ Nhai làm căn cứ địa; sau khi Bác về nước, Cao Bằng được chọn làm căn cứ địa thứ hai của
Đảng.
Đến năm 1943, chủ nghĩa phát xít bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn, Đảng
ta đã chủ trương đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Hoạt động chuẩn bị diễn ra sôi nổi ở khắp nơi từ nông thôn đến thành thị
trên cả nước. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc: ở căn cứ Bắc Sơn – Vũ
Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh; ở Cao Bằng, năm 1943 ban Việt Minh Cao -
Bắc Lạng đã lập ra 19 ban xung phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Bắc Sơn…
Ngày 07/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “sửa soạn khởi
nghĩa” và kêu gọi nhân dân “sắm sửa vũ khí đuổi kẻ thù chung”; không khí chuẩn
bị khởi nghĩa sôi sục trong khu căn cứ:
Tháng 11/1944, ở Vũ Nhai nổ ra khởi nghĩa, nhưng bị tổn thất nặng nề do
thời cơ chưa thuận lợi, buộc phải chuyển sang chiến tranh du kích.
Ở Cao - Bắc - Lạng cũng chuẩn bị phát động khởi nghĩa, nhưng Bác đã kịp
thời hoãn lại để chờ thời cơ.
Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
lập. Ngay sau khi thành lập, đội đã liên tiếp giành thắng lợi: Phay Khắt
(25/12/1944), Nà Ngần (26/12/1944), mở rộng ảnh hưởng khắp chiến khu Cao - Bắc
- Lạng.
Đồng thời, đội Cứu quốc quân cũng phát động chiến tranh du kích và giành
được nhiều thắng lợi ở Chiêm Hoá, Vĩnh Yên, Phú Thọ.
Như vậy, từ Hội nghị Trung ương 8 đến cuối năm 1944 đầu 1945, Đảng đã
xây dựng và tập hợp được một lực
lượng chính trị hùng hậu dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, và
một lực lượng vũ trang đang trưởng
thành nhanh chóng cùng một vùng căn cứ cách mạng vững chắc, sẵn sàng
cho việc tiến tới một cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang giành chính
quyền khi thời cơ đến.
Câu 61: Trình
bày khái quát cao trào kháng Nhật cứu nước từ tháng 3 đến tháng 8/ 1945. Cuộc
tổng khởi nghĩa tháng Tám đã thành công như thế nào?
1. Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) - thời cơ
cách mạng đến gần
Đầu năm 1945, chủ nghĩa phát xít liên tục thất bại nặng nề:
+ Ở Châu Âu: Đức bị đánh bật khỏi Liên Xô, đồng thời liên quân Anh – Mĩ
đổ bộ vào giải phóng nước Pháp, sau đó các nước Trung và Đông Âu cũng được giải
phóng.
+ Ở mặt trận Thái Bình Dương: Phát xít Nhật cũng bị liên quân Anh – Mĩ
tấn công dồn dập.
+ Thực dân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị cho việc hất cẳng Nhật
khi quân Đồng Minh tấn công vào Đông Dương.
Nhật biết rõ ý đồ của Pháp nên đã hành động trước: Đêm 9/3/1945, Nhật nổ
súng đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương => Thực dân Pháp nhanh chóng tan rã
và đầu hàng.
Sau khi hất cẳng Pháp, Nhật tuyên bố “trao trả độc lập cho các dân tộc
Đông Dương” và đưa lực lượng thân Nhật ra lập nên chính phủ bù nhìn ở Việt Nam
do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng và Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Nhưng trên thực tế, Nhật lại tiến hành nhiều hành động trái ngược:
+ Đưa người Nhật thay thế các vị trí của người Pháp trong bộ máy chính
quyền thực dân để thống trị và bóc lột dân ta.
+ Tiếp tục vơ vét, bóc lột nhân làm cho nhân dân ta đói khổ.
+ Tiến hành hàng loạt các hoạt động đàn áp lực lượng cách mạng và nhân
dân.
2. Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng
khởi nghĩa tháng Tám
2.1. Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” để điều chỉnh chiến lược
Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra chỉ thị:
“Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Chỉ thị đã xác định:
Kẻ thù trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật.
Thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng “Đánh đuổi phát xít
Nhật”.
Đưa ra khẩu hiệu “Thành lập chính quyền cách mạng” để chống lại chính
quyền bù nhìn thân Nhật.
Hình thức đầu tranh: biểu tình thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng
chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Hội nghị quyết định phát động cao trào “Kháng Nhật cứu nước”, chuẩn bị
cho Tổng khởi nghĩa.
2.2. Khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị tiến tới
tổng khởi nghĩa
Ở căn cứ Cao - Bắc - Lạng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và
Cứu quốc quân đã lãnh đạo quần chúng giải phóng hàng loạt các xã, châu,
huyện...
Ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang...vùng giải phóng tiếp tục được mở
rộng.
Năm 1945, nạn đói đang hoành hành làm 2 triệu người miền Bắc chết, trong
khi các kho thóc của Nhật thì đầy ắp.Đảng đã kịp thời phát động phong trào đánh
chiếm kho thóc của Nhật để cứu đói.
Ở Quảng Ngãi, các đồng chí tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy chiếm
đồn giặc và lập ra đội du kích Ba Tơ.
Ngày 15/4/1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ họp và quyết định:
+ Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.
+ Thành lập Ủy Ban quân sự Bắc kỳ.
Ngày 15/5/1945, Việt Nam giải phóng quân ra đời.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc
giải phóng Việt Nam và Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp.
Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, Tân Trào được
chọn làm “thủ đô” của Khu giải phóng, đồng thời thi hành 10 chính sách lớn của
Việt Minh.
Như vậy,
đến trước tháng 8/1945, lực lượng cách mạng Việt Nam đã chuẩn bị chu đáo và
đang từng bước khởi nghĩa, sẵn sàng cho một cuộc tổng khởi nghĩakhi thời cơ xuất hiện.
Câu 62: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
1. Nhật đầu hàng quân Đồng Minh - thời cơ cách mạng
xuất hiện
Ở Châu Âu, ngày 8/5/1945, Đức đầu hàng quân Đồng Minh không điều kiện.
Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông của
Nhật tại Trung Quốc.Đến trưa 15/8/1945, Nhật chính thức đầu hàng quân Đồng Minh
không điều kiện.Quân Nhật ở Đông Dương và chính quyền Trần Trọng Kim hoang mang
cực độ.Kẻ thù của dân tộc Việt Nam đã gục ngã, thời cơ giành chính quyền đã
xuất hiện.
Trước đó, lực lượng Đồng Minh đã có sự phân công quân đội vào Đông Dương
để giải giáp quân Nhật. Chính vì vậy, thời cơ giành chính quyền bị giới hạn từ
khi Nhật đầu hàng đến trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
2. Đảng đã nắm bắt thời cơ và phát động tổng
khởi nghĩa
Trước tình hình phát xít Nhật liên tục bị thất bại, ngày 13 tháng 8 năm
1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đang họp ở Tân Trào - Tuyên Quang (từ 13/8
đến 15/8/1945). Ngay khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Hội nghị quyết định:
+ Phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước
khi quân Đồng Minh vào.
+ Thành lập Ủy Ban kháng chiến toàn quốc và ra Quân lệnh số 1.
Từ ngày 16 đến 17/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào đã quyết định:
+ Tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng.
+ Thông qua 10 chính sách của Việt Minh.
+ Lập Ủy Ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch(Sau
này là Chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa).
+ Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kì, bài hát Tiến quân ca làm quốc ca.
Sau đó, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy giành chính
quyền.
Chiều ngày 16/8/1945, theo lệnh của Ủy Ban khởi nghĩa, Võ Nguyên Giáp
chỉ huy một đội quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho cuộc
Tổng khởi nghĩa.
3. Giành chính quyền trong cả nước
Từ ngày 14/8/1945 đến ngày 18/8/1945, 4 tỉnh đầu tiên giành được độc lập
là: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tỉnh, Quảng Nam.
Từ tối 15/8/1945 đến ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội đã giành được chính
quyền.
Ngày 23/8/1945, Huế được giải phóng.Đến 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị.
Ngày 25/8/1945, Sài Gòn được giải phóng.
Đến ngày 28/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công hoàn toàn trong
cả nước (trừ một số thị xã: Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu… đang bị lực
lượng của Tưởng Giới Thạch chiếm đóng).
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố sự ra đời của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Câu 63: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý
nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm.
1. Nguyên nhân thắng lợi
* Khách quan: Hồng
quân Liên Xô và quân Đồng Minh đánh bại chủ nghĩa phát xít mà trực tiếp là phát
xít Nhật đã tạo ra một thời cơ thuận lợi để nhân dân ta đứng lên giành chính
quyền.
* Chủ quan: Dân
tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc. Vì vậy, khi Đảng đứng ra kêu
gọi và lãnh đạo kháng chiến chống giặc thì mọi người đã hăng hái hưởng ứng, tạo
nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù.
Do sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Bác Hồ:
Động viên, giác ngộ và tổ chức được các tầng lớp nhân dân đoàn kết dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trong một mặt trận dân tộc thống nhất.
Kết hợp tài tình giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu
tranh du kích với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Nắm bắt thời cơ kịp thời, từ đó đưa ra được những chỉ đạo chiến lược
đúng đắn.
2. Ý nghĩa lịch sử
* Đối với dân tộc
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó đã
đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật và lật nhào chế độ phong kiến.
Đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, đưa nhân
dân ta từ thân phận nô lệ thành người làm chủ nước nhà, Đảng ta trở thành Đảng
cầm quyền.
Mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỉ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
* Đối với quốc tế
Là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của dân tộc nhược tiểu trên con
đường đấu tranh tự giải phóng mình khỏi ách đế quốc - thực dân.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa trên thế giới.
3. Bài học kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học quý báu:
-Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn,
sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, trong đó nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu.
-Đánh giá đúng vị trí của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, khơi dậy
tinh thần dân tộc, tập hợp và khai thác triệt để sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, cô lập và phân hoá cao độ kẻ thù để từng bước tiến lên đánh bại chúng.
-Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực và khởi nghĩa
vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị lâu dài
về lực lượng và kịp thời nắm bắt thời cơ, tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến
lên Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi hoàn toàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét