Đề
: Về nhân vật thị trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là
người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và liều lĩnh. Nhưng ý kiến khác lại nhấn
mạnh: Thị là người giàu nữ tính và khát vọng.
Từ cảm nhận của mình về nhân vật, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.
Từ cảm nhận của mình về nhân vật, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.
BÀI LÀM
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết
gắn liền với hơi thở của vùng nông thôn Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm
viết về con người và mảnh đất này như : “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”…
Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc
của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm
1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào
tương lai của người lao động nghèo. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân
vật người vợ nhặt. Về nhân vật này, có ý kiến cho rằng: Đó là người phụ nữ lao
động nghèo, cùng đường và liều lĩnh. Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Thị là
người giàu nữ tính và khát vọng.
Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện
“Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”.
Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại
thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật nhưng người “vợ nhặt”
là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được khắc
họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt là “người
phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh” . Đây là một nhận xét về tính cách tâm
lý của người đàn bà năm đói, vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được
miếng ăn cho mình. Ý kiến thứ hai bàn về vẻ đẹp của thị “giàu nữ tính và khát vọng”.
Ý kiến này khẳng định và góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham
sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Cả hai ý kiến này đều
sâu sắc mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt – nạn nhân của
nạn đói năm 1945.
Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người
vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là nạn nhân của nạn
đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt
là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải
là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị
là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối
tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu
mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt
đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như
không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với
ngoại hình kém hấp dẫn, nếu như không muốn nói là xấu. Chân dung của thị được gợi
tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả
tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng
hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch
nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn
tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”,
“chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái
đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được
cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Đó phải chăng là cái cùng đường của thị ?
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: " Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: " Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Phía sau hình ảnh một kẻ “cùng đường và liều
lĩnh”, bạn đọc thật sự xúc động trước vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn của thị. Đó là một
người phụ nữ giàu nữ tính, giàu lòng tự trọng và có khát vọng sống mãnh liệt.
Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn
“săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như
anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn
bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào
chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh
của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa thị phải
theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai
người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của thị. Bởi cũng
biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, thị có khi lại
trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm
lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy
của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy
cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả
tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc thị về
đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao
ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào
lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương
lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng
đó phải chăng là thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng
chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính
Kim Lân đã thổi vào tâm hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc
sống ngày mai. Quả thật là thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương
tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị
vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.
Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên
trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực,
biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng.Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi
mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất
ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là
hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng.
Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Thay vào đó, chúng ta đã được cảm nhận vẻ đẹp rất nữ tính của thị. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị .
Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Thay vào đó, chúng ta đã được cảm nhận vẻ đẹp rất nữ tính của thị. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị .
Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn
chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải
ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm
cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc
sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi
cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn
lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe
tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của
Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp
Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy
nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.
Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít,
song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ
là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính thị
đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ
của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong
tâm tính của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Chính vì
thế, cả hai ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng. Thị nghèo khổ, cùng đường,
liều lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng sau cái cùng đường liều
lĩnh ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát vọng vượt lên thảm cảnh
nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày mai.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn
đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả
chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.
Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của
Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về
tương lai với niềm tin vào sự sống. Qua đó nhà văn cũng bộc lộ niềm cảm thông
sâu sắc với những số phận con người bé nhỏ của nhân dân ta trong nạn đói khủng
khiếp năm 1945. Nhà văn đã lên án, tố cáo xã hội cũ đã đẩy dân ta vào thảm cảnh
này đồng thời ca ngợi tấm lòng yêu thương, đùm bọc của con người Việt Nam trong
nạn đói mà tiêu biểu là nhân vật Tràng và bà cụ Tứ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét