MIỀN
BẮC TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1975
Câu 97:Trình
bày quá trình hoàn thành cải cách
ruộng đất, khôi phục kinh tế (1954 - 1957).
Sau khi miền Bắc được độc
lập, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách ruộng đất. Tính từ khi bắt đầu đến
khi kết thúc, ta đã tiến hành 5 đợt cải cách:
Kết quả của 5 đợt cải
cách, ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua 810.000 ha ruộng đất, 106.448 trâu
bò, 148.565 ngôi nhà và 1.846.000 nông cụ các loại do giai cấp địa chủ chiếm giữ
chia cho 2.104.138 hộ nông dân lao động.
Tuy nhiên trong quá
trình cải cách ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm. Tháng 9/1956, Hội
nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện cải cách.
Công tác sửa sai đã dần
dần củng cố được lòng tin của nhân dân, cán bộ đối với Đảng, làm ổn định hành
chính trị, giữ vững được trật tự, trị an, củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Bên cạnh việc thực hiện
những nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tập trung mọi nỗ lực để
hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định
và bước đầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân:
Trong nông nghiệp: nhân
dân đã khôi phục sản xuất trên những vùng đất bỏ hoang, củng cố hệ thống thủy
nông, đê điều, đẩy mạnh sản xuất phân bón, gầy dựng lại số trâu bò bị thiệt hại
trong chiến tranh, cải tiến nông cụ, phương thức canh tác… Đến năm 1956, miền Bắc
sản xuất hơn 4 triệu tấn lương thực, nạn đói giáp hạt được đẩy lùi.
Trong công nghiệp, ta đã
khôi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây mới 55 xí nghiệp mà chủ yếu là trong lĩnh vực
sản xuất hàng tiêu dùng.
Kết quả: giá trị tổng sản
lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỉ đồng năm
1957.
Giao thông vận tải: nhà
nước đã đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện: Năm 1954
dành 54.4% tổng số vốn đầu tư cho xây dựng và kiến thiết cơ bản, năm 1956 giảm
xuống 28.4%, đến 1957 là 20.9%.
Nhờ được đầu tư lớn,
giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng: khôi phục 657km đường sắt, 168 cầu
cống trong 3 năm từ 1955 đến 1957; đường bộ khôi phục được 1624 km, sửa chữa lớn
1.660km, làm mới 600km đường trục chính …
Thương nghiệp: nhà nước
đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán; ngoại thương
đúng nghĩa kể từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thành lập đến thời điểm
này.
Các ngành văn hóa, giáo
dục, y tế phát triển nhanh chóng: từ năm 1955 đến 1957, miền bắc có hơn 1 triệu
người thoát nạn mù chữ, số người được bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2 tằng nhanh;
năm học 1956 - 1957, miền bắc có 606.000 học sinh vỡ lòng 952.000 học sinh phổ
thông 3.664 sinh viên.
Năm 1957, miền Bắc có 55
bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh,
5130 ban phòng bệnh, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi.
Câu 98:
Trình bày quá trình cải tạo chủ nghĩa xã hội, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958 -
1960).
Tháng 11/ 1958, Hội nghị
lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định động viên toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân miền Bắc thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế,
phát triển văn hóa (1958 - 1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh.
Đồng thời song song với cải tạo là ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh làm lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Trong cải tạo nông nghiệp:
đến cuối năm 1958, số lượng hợp tác tăng lên 4.721 và tháng 11/1960 là 41.401 hợp
tác xã với 76% diện tích đất canh tác.
Đây là thắng lợi có ý
nghĩa quan trọng đối với nông thôn và nông dân miền Bắc. Nó tạo điều kiện cho sản
xuất nông nghiệp phát triển, đảm bảo lương thực, thực phẩm cho miền Bắc và chi
viện cho miền Nam.
Trong cải tạo công,
thương nghiệp tư bản tư doanh: nhà nước chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản
xuất của tư sản và trả dần tiền chuộc cho họ. Tất cả các cơ sở công thương sau
khi cải tạo được tổ chức thành các xí nghiệp công thương hợp doanh, hợp tác…,
xóa bỏ sự bóc lột của tư bản, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển trong điều
kiện có chiến tranh.
Trong cải tạo thủ công
nghiệp và những người buuôn bán nhỏ: toàn miền Bắc đã đưa 81% thợ thủ công vào
các hình thức hợp tác xã, 60% số người buôn bán nhỏ được cải tạo tham gia vào
các tổ hợp mua bán hoặc các hợp tác xã mua bán.
Tiến hành phát triển
kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế quốc doanh:
Trong công nghiệp: Giai
đoạn 1958 – 1960, tổng số ngân sách đầu tư cho công nghiệp tăng gấp 3 lần so với
giai đoạn 1955 – 1957, giá trị sản phẩm công nghiệp miền Bắc chiếm 41% tổng giá
trị kinh tế quốc dân; trong đó, công nghiệp quốc doanh chiếm 90,8% sản lượng
công nghiệp.
Trong nông nghiệp: Năm
1957, miền Bắc có 16 nông trường quốc doanh, đến năm 1960 tăng lên 59 nông trường.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn này tăng gấp đôi so với giai đoạn 1955 -
1957.
Trong xây dựng cơ bản:
Nhiều công trình quan trọng đã được xây dựng như: nhà máy điện vinh, Lào Cai,
nhà máy sứ Hải Dương; cao su, thuốc lá ở Hà Nội, các công trình thủy lợi …
Về văn hóa, giáo dục, y
tế: Đến năm 1960, số học sinh phổ thông tăng gấp 2 lần, số học sinh trung học
chuyên nghiệp tăng 4 lần, đại học tăng 4 lần với 9 trường Đại học và 11.000
sinh viên, nâng tỷ lệ người học/100 dân lên mức 18/100.
Số bệnh viện, bệnh xá,
trạm xá, cơ sở hộ sinh ..tăng gấp 11 lần, số giường bệnh tăng gấp đôi so với
trước.
Đồng thời với nhiệm vụ
khôi phục, cải tạo, phát triển, văn hóa, Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến việc
xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng để biến miền Bắc trở thành một hậu phương
lớn, vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
Câu 99:
Trình bày nội dung và ý nghĩa của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III của
Đảng (9 - 1960).
Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ III đã diễn ra. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51
đại biểu dự khuyết. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo của Đảng trong 10
năm kể từ Đại hội II (2/1951), thảo luận và vạch ra đường lối đấu tranh cho cả
hai miền trong giai đoạn mới, xác định nhiệm vụ mới của cách mạng cả nước và của
từng miền.
Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của cả hai
miền là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường mau chóng lực lượng
của miền Bắc về mọi mặt, và “trách nhiệm của cách mạng ở miền Nam là phải trực
tiếp làm nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai để giải
phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước”.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên
chính thức và 31 ủy viên dự khuyết; bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng,
và đồng chí Lê Duẫn làm Bí thư thứ nhất.
Đại hội đã đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình
xác định đường lối cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, định hướng cho sự phát triển
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1961 – 1975.
Câu 100: Trình bày những thành tựu cơ bản của miền Bắc
trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965).
Miền Bắc là nền tảng, gốc
rể đảm bảo cho sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất tổ
quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định: Phải
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, biến miền Bắc thành căn cứ địa
vững chắc cho các mạng cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, đại hội đã đề ra kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bước đầu công nghiệp hóa nước nhà.
Từ năm 1961 đến năm
1965, nhân dân miền Bắc đã dồn sức thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất với
nhiều phong trào thi đua sôi nổi như trong nông nghiệp có phong trào “đại
phong”, trong công nghiệp có phong trào "duyên hải", trong quân đội
có phong trào "ba nhất", trong thủ công nghiệp có phong trào
"thành công" ….
1. Công nghiệp
Nhà nước đã thực hiện những
biện pháp và chính sách nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật và quản
lý, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cải tiến kỹ thuật… Kết quả sau 5 năm
thực hiện, ngành công nghiệp miền Bắc đã có những bước phát triển đáng kể:
Tính đến năm 1965, ngành
điện tăng gấp 10 lần so với năm 1995; ngành cơ khí tăng bình quân hàng năm là
30%, một số nhà máy lớn đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như: khu gang
thép Thái Nguyên, nhà máy hóa chất Việt Trì, phân đạm Bắc Giang, Supper phốt
phát Lâm Thao, …
Công nghiệp phục vụ nông
nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy quá trình cơ giới hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp.
2. Nông nghiệp
Nhiệm vụ trọng tâm của
nông nghiệp là giải quyết vấn đề lương thực đồng thời coi trọng cây công nghiệp,
chăn nuôi, mở mang nghề cá, nghề phụ .. phấn đấu nâng cao mức sống của người
nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc.
Nông dân miền Bắc đã
tích cực hưởng ứng những chủ trương của Đảng, có trên 90% hộ nông dân đã vào hợp
tác xã, trong đó có 50% là hợp tác xã bậc cao; năm 1960, toàn miền Bắc có 4.300
hợp tác xã bậc cao thì đến năm 1965 đã tăng lên 18.600 hợp tác xã, năng suất
tăng: năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha/năm.
3. Văn hóa, giáo dục và y tế
Đảng và Nhà nước chủ
trương đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục để xây dựng một nền văn hóa mới và
con người mới Việt Nam.
Trong 5 năm (1961 -
1965) số trường phổ thông tăng từ 7066 lên 10.294 trường, số trường đại học từ
9 trường lên 18 trường; ngoài ra nhà nước còn ban hành các chế độ, chính sách
phát triển giáo dục … Nhờ vậy, số học sinh phổ thông tăng 3,5 lần, số sinh viên
đạt 34.000 người, 6 vạn học sinh trung cấp và cơ bản đã xóa được nạn mù chữ ở
miền Bắc.
Mạng lưới y tế được xây
dựng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tính đến năm 1965, đã có 70% số huyện
có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế với đội
ngũ y bác sĩ, tăng gấp 5 lần so với năm 1960 (1525 bác sĩ, 8043 y sĩ).
Đời sống văn hóa được
nâng cao, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
4. Quân sự, quốc phòng
Trong giai đoạn 1961 -
1965, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung cho việc xây dựng quân đội chính qui hiện
đại theo kế hoạch quân sự lần thứ hai để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh
không ngừng cả về chất lượng và số lượng.
Để đảm bảo yêu cầu bảo vệ
miền Bắc và chi viện cho miền Nam kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chính phủ đã
cho cải tạo, nâng cấp và mở rộng hệ thống giao thông chiến lược ở cả 2 miền Nam
- Bắc.
Công tác chi viện cho miền
Nam trong giai đoạn 1961 - 1963 bắt đầu được tăng cường: tổng cộng có 4 vạn cán
bộ được chuyển vào miền Nam. Đến năm 1964, các đơn vị cơ động cấp trung đoàn đã
được đưa vào Nam.
Câu 102: Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân
phá hoại miền Bắc như thế nào?
Tấn công phá hoại miền Bắc
là một kế hoạch được tiến hành song song với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở
miền Nam nhằm đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Để có cớ tấn công miền
Bắc, ngày 31/7/1964, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” và cho máy bay ném bom bắn
phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Nghệ An…
Ngày 7/02/1965, Mĩ cho
máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc.
Mĩ đã huy động hàng
nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52,
F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt
ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á
khác.
Lực lượng không quân và
hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Trung
bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống.
Mục tiêu tấn công của Mĩ
không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các
nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh
viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng…
Câu 103:
Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, vừa chiến đấu vừa
sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn như thế nào?
1. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ
Để phù hợp với tình hình
mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng
công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẳn
sàng chiến đấu.
Để chống chiến tranh phá
hoại của Mĩ, miền Bắc đã thực hiện “quân sự hóa toàn dân”, đào đắp công sự chiến
đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm
bảo đời sống ổn định cho người dân.
Nhân miền Bắc đã huy động
toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và
phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu
của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả
do chiến tranh tàn phá.
Trong hơn 4 năm (từ
5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong
đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ;
bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích.
Cùng với những thất bại ở
chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết
Mậu Thân – 1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20
trở ra kể từ ngày 31/3/1968 và đến ngày 01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá
miền Bắc hoàn toàn.
2. Tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội
Để phù hợp với tình hình
mới, Đảng đã chủ trương chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời
chiến, tập trung vào việc xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa
phương nhằm bảo đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc
duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều
kiện chiến tranh ác liệt.
Nhân dân miền Bắc đã vượt
qua được những khó khăn, thách thức, dấy lên một cao trào cách mạng rộng lớn
chưa từng có trong lao động sản xuất; Tất cả nhân dân miền Bắc chung sức, chung
lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần "tất cả cho
tiền tuyến tất cả để chiến thắng" và "mỗi người làm việc bằng hai vì
đồng bào miền nam ruột thịt", "thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người". Kết quả:
Trong nông nghiệp: Hai ngành sản xuất phát
triển mạnh nhất là chăn nuôi và trồng trọt; diện tích canh tác được mở rộng,
năng suất lao động không ngừng tăng lên: năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và
640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha/năm đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và
2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thành Trì
(Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây) trở thành “quê hương 5 tấn” đầu tiên.
Trong công nghiệp: Các cơ sở sản xuất lớn
sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo
cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Công nghiệp quốc phòng
được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh.
Trong giao thông vận tải: Nhân dân miền Bắc đã bất
chấp bom đạn, ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc
và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc – Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ
công tác chi viện cho miền Nam.
Trong lĩnh vực tài chính - thương mại: đảm bảo được việc cung ứng
vốn, hàng hóa phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thời chiến và yêu cầu chiến
đấu.
Trong văn hóa, giáo dục và y tế: nền giáo dục vấn tiếp tục
phát triển, đặc biệt là giáo dục đại học, số sinh viên tăng gấp 3 lần so với
trước chiến tranh phá hoại; số cán bộ có trình độ đại học năm 1965 là 20.000, đến
năm 1969, lến đến 40.000 người.
Các ngành văn hóa, nghệ
thuật hoạt động sôi nổi phục vụ cho quần chúng, y tế đã có những thành tựu mới
về chuyên môn …
3. Chi viện cho miền Nam
Những thành quả trên còn
là một nguồn lực đánh kể giúp cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối
với miền Nam. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho miền Nam
trong 4 năm (1965 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước: hơn 30 vạn cán
bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng,
xăng dầu, thuốc men …
Sự chi viện to lớn đó đã
góp phần quyết định thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc chiến đấu
chống “chiến tranh cục bộ” của Mĩ - Ngụy.
Câu 104: Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi
viện cho miền Nam (1969 - 1972) như thế
nào?
1.Miền Bắc khôi phục và phát triển
kinh tế
Sau chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất, nhân dân miền Bắc đã ra sức thi đua học tập, lao động sản xuẩt để
khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội:
Trong nông nghiệp: Các hợp tác xã tích cực
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật thâm
cạnh, tăng vụ, nhiều giống lúa mới được đưa vào trồng trên diện tích rộng.
Năng suất lúa tăng
nhanh, có hợp tác xã đạt 6.7 tấn/ha/năm. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn
60 vạn tấn so với năm 1968; năm 1972, mặc dù bị thiên tai, mất mùa nhưng sản lượng
vẫn tăng gần 30 vạn tấn so với năm 1968.
Trong công nghiệp: nhanh chóng khôi phục
những cơ sở công nghiệp ở Trung ương và địa phương do chiến tranh tàn phá.
Trong giai đoạn này, nhà máy thủy điện đầu tiên của nước ta là nhà máy Thác Bà
(Yên Bái) đã khánh thành và đưa vào sử dụng vào tháng 10/1971; các ngành công
nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng…. Đều có bước phát
triển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1970 vượt kế hoạch 2,5%.
Trong lĩnh vực giao thông vận tải: trong một thời gian ngắn,
các tuyến giao thông quan trọng, hệ thống cầu, phà từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh
(Quảng trị) được khai thông, khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt và vượt mức
trước chiến tranh phá hoại.
Trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục, y tế:
Năm học 1965 - 1966,
toàn miền Bắc có 4,9 triệu người đi học, đến năm 1971 - 1973, lên đến 6 triệu;
trung bình 1 vạn dân có 2500 học sinh và 61 sinh viên đại học.
Các cơ sở khám chữa bệnh
được khôi phục và xây dựng mới, số bệnh viện tăng từ 252 (năm 1965) lên 431
(năm 1971), tỉ lệ bác sĩ/ 1 vạn dân đạt 11/10.000.
2. Chi viện cho miền Nam
Năm 1969, khối lượng
hàng hóa vận chuyển qua tuyến đường 559 đạt 170.000 tấn, tăng 29% so với năm
1968; hơn 80.000 quân cũng được điều động vào chi viện cho các chiến trường miền
Nam trong năm này.
Tháng 6/1970, Bộ chính
trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương trực thuộc Hội
đồng Chính phủ. Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức, huy động sức mạnh của hậu
phương miền Bắc, chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam và Lào,
Campuchia.
Trong năm 1970, 1971, miền
Bắc đã tiếp tục đưa thêm 195.000 quân vào chiến trường miền Nam cùng với một khối
lượng lớn vật chất, phương tiện phục vụ chiến tranh.
Đầu năm 1972, giữa lúc
nhân dân miền Bắc đang khẩn trương thực hiện kế hoạch nhà nước và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng thì đế quốc Mĩ lại gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần
thứ 2.
Câu 105:
Trình bày diễn biến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II của Mĩ
(1972 - 1973) ở miền Bắc.
Sau cuộc tiến công chiến
lược năm 1972 của quân dân ta ở miền Nam, Nich – xơn ra lệnh ném bom, bắn phá
trở lại miền Bắc và ồ ạt tham chiến ở miền Nam nhằm cứu vãn tình thế.
Ngày 06/4/1972, Mĩ đã
cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972
Nich - xơn tuyên bố chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
Miền Bắc đã nhanh chóng
chuyển mọi hoạt động sang thời chiến. Các lực lượng vũ trang nhân dân của ta đã
được chuẩn bị trước và luôn trong tư thế thế sẵn sàng chiến đấu. Nhờ vậy, quân
dân miền Bắc đã chủ động, lập tức chống trả địch ngay từ trận đầu.
Chỉ trong vòng 1 tháng
(6/4 - 8/5/1972), ta đã bắn rơi 90 máy bay địch, bắn cháy 20 tàu chiến và bắt sống
nhiều giặc lái; đồng thời vẫn đảm bảo thông suốt các tuyến đường chiến lược chi
viện cho tiền tuyến.
Từ ngày 18 đến hết ngày
29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích chiến lược không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội,
Hải Phòng và một số thành phố khác ở miền Bắc nước ta.
Với cách đánh linh hoạt,
sáng tạo, ngay trong đêm đầu tiên địch bắn phá, ta đã hạ 3 chiếc B52. Tổng cộng
trong suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972, ta đã hạ 81 máy bay, trong đó có 34 máy
bay B52, 5 máy bay F111, 21 máy bay F4, 12 máy bay A7, 1 máy bay F105, 4 máy
bay A6, bắt sống 44 giặc lái, bắn chìm và phá hỏng 9 tàu chiến.
Do bị thiệt hại quá nặng
nề, ngày 15/1/1973, Mĩ tuyên bố ngưng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền Bắc
để kí kết hiệp định Pari. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của
nhân dân miền Bắc kết thúc thắng lợi.
Câu 106: Đấu tranh đòi Mĩ xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền
Bắc như thế nào?
Đầu năm 1967, ta đã chủ trương mở thêm mặt trận tấn công
ngoại giao với mục tiêu trước mắt là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện hoạt động
bắn phá miền Bắc.
Ngày 31/3/1968, sau đòn tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân
1968, Giôn-xơn đã ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và tuyên
bố sẽ thương lượng với ta.
Ngày 13/5/1968, cuộc thương lượng chính thức giữa hai bên
(Việt Nam và Hoa Kì) đã họp phiên đầu tiên tại Paris. Phía Việt Nam đã khẳng
định lập trường không thay đổi của mình: Trước hết, Mĩ phải chấm dứt không điều
kiện hoạt động ném bom và mọi hành động chiến tranh khác trên tòan miền Bắc, sau
đó mới bàn đến các vấn đề khác.
Ngày 01/11/1968, Giôn-xơn đã tuyên bố ngừng hoàn toàn mọi
hoạt động ném bom bắn phá miền Bắc để thúc đẩy tiến trình đàm phán. Kết quả,
hai bên đã thống nhất mở rộng Hội nghị thành Hội nghị 4 bên: Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, Mĩ và Việt Nam Cộng
Hòa.
Câu 107 : Trình bày
diến biến cuộc đấu tranh đòi Mĩ chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam.
Sau cuộc họp trù bị vào ngày 18/01/1969, Hội nghị 4 bên
đã chính thức họp phiên đầu tiên vào ngày 25/1/1969 tại Paris.
Hội nghị 4 bên đã trải qua nhiều cuộc họp chung công khai
và nhiều cuộc tiếp xúc riêng bí mật. Trong quá trình đàm phán, lập trường của 4
bên (mà thực chất là 2 bên – Việt Nam và Mĩ) mâu thuẫn nhau gay gắt:
+ Phía Việt Nam: Kiên quyết đòi phía Mĩ phải rút hết quân
viễn chinh cùng quân chư hầu về nước và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ
bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
+ Về phía Mĩ: Chúng đòi phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
phải “có qua có lại”, tức là cả quân miền Bắc và quân Mĩ cùng rút khỏi miền Nam
Việt Nam.
Những mâu thuẫn đó đã làm cho cuộc thương lượng kéo dài,
căng thẳng, quyết liệt và bị gián đoạn nhiều lần, kéo dài đến cuối năm 1972 vẫn
chưa có kết quả.
Câu 108:
Miền Bắc đã khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, ra
sức chi viện cho miền Nam sau Hiệp định Pari như thế nào?
Miền
Bắc đã khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế.
Sau Hiệp định Pa – ri, quân Mĩ và đồng minh của Mĩ rút về
nước, tình hình so sánh lực lượng thay đổi theo hướng có lợi cho cách mạng miền
Nam. Miền Bắc trở lại hòa bình, có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát
triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam.
Trong hai năm 1973 – 1974, trên khắp miền Bắc, giai cấp
công nhân, nông dân tập thể, tri thức…đã hăng hái lao động, sản xuất. Nhờ vậy,
những hậu quả của hai cuộc chiến tranh phá hoại nhanh chóng được khắc phục, nền
kinh tế từng bước khôi phục và phát triển.
Cuối tháng 6 năm 1973, miền Bắc đã hoàn thành công tác
tháo gỡ bom mìn.
Đến cuối năm 1974, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông,
kinh tế về cơ bản đã được khôi phục, các cơ sở cũng đi vào ổn định và có bước
phát triển mới. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 (trước chiến
tranh phá hoại), năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%.
Những kết quả trên đã góp phần ổn định đời sống nhân dân
miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi để miền Bắc chi viện cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ - Ngụy ở miền Nam và Lào, Campuchia trong giai đoạn 1973 – 1975.
Miền
Bắc đã tăng cường chi viện cho miền Nam.
Ngay sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương tập trung sức người, sức của sẳn sàng chi viện đột xuất cho
miền Nam.
Trong năm 1973 - 1974, 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên
xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật đã được đưa vào chi viện cho miền Nam.
Đặc biệt trong những tháng đầu năm 1975, miền Bắc đã đưa 57.000 bộ đội vào
chiến trường miền Nam.
Từ mùa khô 1973 – 1974, đến đầu mùa khô 1974 – 1975, miền
Bắc đã chi viện cho miền Nam một lượng hàng hoá, phương tiện, vũ khí rất lớn:
26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng, xăng dầu,… tăng
gấp 9 lần so với năm 1972.
Bên cạnh đó, miền Bắc còn viện trợ
cho Lào và Campuchia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét