Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

MIỀN BẮC TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1975

Câu 97:Trình bày quá trình  hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế (1954 - 1957).
Sau khi miền Bắc được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách ruộng đất. Tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, ta đã tiến hành 5 đợt cải cách:
Kết quả của 5 đợt cải cách, ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua 810.000 ha ruộng đất, 106.448 trâu bò, 148.565 ngôi nhà và 1.846.000 nông cụ các loại do giai cấp địa chủ chiếm giữ chia cho 2.104.138 hộ nông dân lao động.
Tuy nhiên trong quá trình cải cách ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm. Tháng 9/1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện cải cách.
Công tác sửa sai đã dần dần củng cố được lòng tin của nhân dân, cán bộ đối với Đảng, làm ổn định hành chính trị, giữ vững được trật tự, trị an, củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tập trung mọi nỗ lực để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định và bước đầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân:
Trong nông nghiệp: nhân dân đã khôi phục sản xuất trên những vùng đất bỏ hoang, củng cố hệ thống thủy nông, đê điều, đẩy mạnh sản xuất phân bón, gầy dựng lại số trâu bò bị thiệt hại trong chiến tranh, cải tiến nông cụ, phương thức canh tác… Đến năm 1956, miền Bắc sản xuất hơn 4 triệu tấn lương thực, nạn đói giáp hạt được đẩy lùi.
Trong công nghiệp, ta đã khôi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây mới 55 xí nghiệp mà chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng.
Kết quả: giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỉ đồng năm 1957.
Giao thông vận tải: nhà nước đã đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện: Năm 1954 dành 54.4% tổng số vốn đầu tư cho xây dựng và kiến thiết cơ bản, năm 1956 giảm xuống 28.4%, đến 1957 là 20.9%.
Nhờ được đầu tư lớn, giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng: khôi phục 657km đường sắt, 168 cầu cống trong 3 năm từ 1955 đến 1957; đường bộ khôi phục được 1624 km, sửa chữa lớn 1.660km, làm mới 600km đường trục chính …
Thương nghiệp: nhà nước đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán; ngoại thương đúng nghĩa kể từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thành lập đến thời điểm này.
Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng: từ năm 1955 đến 1957, miền bắc có hơn 1 triệu người thoát nạn mù chữ, số người được bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2 tằng nhanh; năm học 1956 - 1957, miền bắc có 606.000 học sinh vỡ lòng 952.000 học sinh phổ thông 3.664 sinh viên.
Năm 1957, miền Bắc có 55 bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh, 5130 ban phòng bệnh, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi.


Câu 98: Trình bày quá trình cải tạo chủ nghĩa xã hội, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958 - 1960).
Tháng 11/ 1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân miền Bắc thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa (1958 - 1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh. Đồng thời song song với cải tạo là ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh làm lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Trong cải tạo nông nghiệp: đến cuối năm 1958, số lượng hợp tác tăng lên 4.721 và tháng 11/1960 là 41.401 hợp tác xã với 76% diện tích đất canh tác.
Đây là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với nông thôn và nông dân miền Bắc. Nó tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đảm bảo lương thực, thực phẩm cho miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Trong cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh: nhà nước chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất của tư sản và trả dần tiền chuộc cho họ. Tất cả các cơ sở công thương sau khi cải tạo được tổ chức thành các xí nghiệp công thương hợp doanh, hợp tác…, xóa bỏ sự bóc lột của tư bản, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển trong điều kiện có chiến tranh.
Trong cải tạo thủ công nghiệp và những người buuôn bán nhỏ: toàn miền Bắc đã đưa 81% thợ thủ công vào các hình thức hợp tác xã, 60% số người buôn bán nhỏ được cải tạo tham gia vào các tổ hợp mua bán hoặc các hợp tác xã mua bán.
Tiến hành phát triển kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế quốc doanh:
Trong công nghiệp: Giai đoạn 1958 – 1960, tổng số ngân sách đầu tư cho công nghiệp tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1955 – 1957, giá trị sản phẩm công nghiệp miền Bắc chiếm 41% tổng giá trị kinh tế quốc dân; trong đó, công nghiệp quốc doanh chiếm 90,8% sản lượng công nghiệp.
Trong nông nghiệp: Năm 1957, miền Bắc có 16 nông trường quốc doanh, đến năm 1960 tăng lên 59 nông trường. Vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn này tăng gấp đôi so với giai đoạn 1955 - 1957.
Trong xây dựng cơ bản: Nhiều công trình quan trọng đã được xây dựng như: nhà máy điện vinh, Lào Cai, nhà máy sứ Hải Dương; cao su, thuốc lá ở Hà Nội, các công trình thủy lợi …
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Đến năm 1960, số học sinh phổ thông tăng gấp 2 lần, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4 lần, đại học tăng 4 lần với 9 trường Đại học và 11.000 sinh viên, nâng tỷ lệ người học/100 dân lên mức 18/100.
Số bệnh viện, bệnh xá, trạm xá, cơ sở hộ sinh ..tăng gấp 11 lần, số giường bệnh tăng gấp đôi so với trước.
Đồng thời với nhiệm vụ khôi phục, cải tạo, phát triển, văn hóa, Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng để biến miền Bắc trở thành một hậu phương lớn, vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.


Câu 99: Trình bày nội dung và ý nghĩa của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960).

Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã diễn ra. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo của Đảng trong 10 năm kể từ Đại hội II (2/1951), thảo luận và vạch ra đường lối đấu tranh cho cả hai miền trong giai đoạn mới, xác định nhiệm vụ mới của cách mạng cả nước và của từng miền.
Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của cả hai miền là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường mau chóng lực lượng của miền Bắc về mọi mặt, và “trách nhiệm của cách mạng ở miền Nam là phải trực tiếp làm nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết; bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, và đồng chí Lê Duẫn làm Bí thư thứ nhất.
Đại hội đã đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình xác định đường lối cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1961 – 1975.


Câu 100:  Trình bày những thành tựu cơ bản của miền Bắc trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965).
Miền Bắc là nền tảng, gốc rể đảm bảo cho sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định: Phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, biến miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho các mạng cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, đại hội đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bước đầu công nghiệp hóa nước nhà.
Từ năm 1961 đến năm 1965, nhân dân miền Bắc đã dồn sức thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất với nhiều phong trào thi đua sôi nổi như trong nông nghiệp có phong trào “đại phong”, trong công nghiệp có phong trào "duyên hải", trong quân đội có phong trào "ba nhất", trong thủ công nghiệp có phong trào "thành công" ….
1. Công nghiệp
Nhà nước đã thực hiện những biện pháp và chính sách nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật và quản lý, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cải tiến kỹ thuật… Kết quả sau 5 năm thực hiện, ngành công nghiệp miền Bắc đã có những bước phát triển đáng kể:
Tính đến năm 1965, ngành điện tăng gấp 10 lần so với năm 1995; ngành cơ khí tăng bình quân hàng năm là 30%, một số nhà máy lớn đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy hóa chất Việt Trì, phân đạm Bắc Giang, Supper phốt phát Lâm Thao, …
Công nghiệp phục vụ nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy quá trình cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
2. Nông nghiệp
Nhiệm vụ trọng tâm của nông nghiệp là giải quyết vấn đề lương thực đồng thời coi trọng cây công nghiệp, chăn nuôi, mở mang nghề cá, nghề phụ .. phấn đấu nâng cao mức sống của người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc.
Nông dân miền Bắc đã tích cực hưởng ứng những chủ trương của Đảng, có trên 90% hộ nông dân đã vào hợp tác xã, trong đó có 50% là hợp tác xã bậc cao; năm 1960, toàn miền Bắc có 4.300 hợp tác xã bậc cao thì đến năm 1965 đã tăng lên 18.600 hợp tác xã, năng suất tăng: năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha/năm.
3. Văn hóa, giáo dục và y tế
Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục để xây dựng một nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam.
Trong 5 năm (1961 - 1965) số trường phổ thông tăng từ 7066 lên 10.294 trường, số trường đại học từ 9 trường lên 18 trường; ngoài ra nhà nước còn ban hành các chế độ, chính sách phát triển giáo dục … Nhờ vậy, số học sinh phổ thông tăng 3,5 lần, số sinh viên đạt 34.000 người, 6 vạn học sinh trung cấp và cơ bản đã xóa được nạn mù chữ ở miền Bắc.
Mạng lưới y tế được xây dựng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tính đến năm 1965, đã có 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế với đội ngũ y bác sĩ, tăng gấp 5 lần so với năm 1960 (1525 bác sĩ, 8043 y sĩ).
Đời sống văn hóa được nâng cao, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
4. Quân sự, quốc phòng
Trong giai đoạn 1961 - 1965, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung cho việc xây dựng quân đội chính qui hiện đại theo kế hoạch quân sự lần thứ hai để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh không ngừng cả về chất lượng và số lượng.
Để đảm bảo yêu cầu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chính phủ đã cho cải tạo, nâng cấp và mở rộng hệ thống giao thông chiến lược ở cả 2 miền Nam - Bắc.
Công tác chi viện cho miền Nam trong giai đoạn 1961 - 1963 bắt đầu được tăng cường: tổng cộng có 4 vạn cán bộ được chuyển vào miền Nam. Đến năm 1964, các đơn vị cơ động cấp trung đoàn đã được đưa vào Nam.






Câu 102: Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc như thế nào?
Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch được tiến hành song song với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nhằm đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Để có cớ tấn công miền Bắc, ngày 31/7/1964, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Nghệ An…
Ngày 7/02/1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác.
Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống.
Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng…

Câu 103: Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn như thế nào?
1. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ
Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẳn sàng chiến đấu.
Để chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, miền Bắc đã thực hiện “quân sự hóa toàn dân”, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân.
Nhân miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá.
Trong hơn 4 năm (từ 5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích.
Cùng với những thất bại ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân – 1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20 trở ra kể từ ngày 31/3/1968 và đến ngày 01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc hoàn toàn.
2. Tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội 
Để phù hợp với tình hình mới, Đảng đã chủ trương chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tập trung vào việc xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương nhằm bảo đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến tranh ác liệt.
Nhân dân miền Bắc đã vượt qua được những khó khăn, thách thức, dấy lên một cao trào cách mạng rộng lớn chưa từng có trong lao động sản xuất; Tất cả nhân dân miền Bắc chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần "tất cả cho tiền tuyến tất cả để chiến thắng" và "mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền nam ruột thịt", "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Kết quả:
Trong nông nghiệp: Hai ngành sản xuất phát triển mạnh nhất là chăn nuôi và trồng trọt; diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên: năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha/năm đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thành Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây) trở thành “quê hương 5 tấn” đầu tiên.
Trong công nghiệp: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh.
Trong giao thông vận tải: Nhân dân miền Bắc đã bất chấp bom đạn, ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc – Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam.
Trong lĩnh vực tài chính - thương mại: đảm bảo được việc cung ứng vốn, hàng hóa phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thời chiến và yêu cầu chiến đấu.
Trong văn hóa, giáo dục và y tế: nền giáo dục vấn tiếp tục phát triển, đặc biệt là giáo dục đại học, số sinh viên tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá hoại; số cán bộ có trình độ đại học năm 1965 là 20.000, đến năm 1969, lến đến 40.000 người.
Các ngành văn hóa, nghệ thuật hoạt động sôi nổi phục vụ cho quần chúng, y tế đã có những thành tựu mới về chuyên môn …
3. Chi viện cho miền Nam
Những thành quả trên còn là một nguồn lực đánh kể giúp cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho miền Nam trong 4 năm (1965 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước: hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men …
Sự chi viện to lớn đó đã góp phần quyết định thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” của Mĩ - Ngụy.





Câu 104: Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện cho miền Nam  (1969 - 1972) như thế nào?
1.Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế
Sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhân dân miền Bắc đã ra sức thi đua học tập, lao động sản xuẩt để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội:
Trong nông nghiệp: Các hợp tác xã tích cực áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật thâm cạnh, tăng vụ, nhiều giống lúa mới được đưa vào trồng trên diện tích rộng.
Năng suất lúa tăng nhanh, có hợp tác xã đạt 6.7 tấn/ha/năm. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968; năm 1972, mặc dù bị thiên tai, mất mùa nhưng sản lượng vẫn tăng gần 30 vạn tấn so với năm 1968.
Trong công nghiệp: nhanh chóng khôi phục những cơ sở công nghiệp ở Trung ương và địa phương do chiến tranh tàn phá. Trong giai đoạn này, nhà máy thủy điện đầu tiên của nước ta là nhà máy Thác Bà (Yên Bái) đã khánh thành và đưa vào sử dụng vào tháng 10/1971; các ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng…. Đều có bước phát triển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1970 vượt kế hoạch 2,5%.
Trong lĩnh vực giao thông vận tải: trong một thời gian ngắn, các tuyến giao thông quan trọng, hệ thống cầu, phà từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh (Quảng trị) được khai thông, khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt và vượt mức trước chiến tranh phá hoại.
Trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục, y tế:
Năm học 1965 - 1966, toàn miền Bắc có 4,9 triệu người đi học, đến năm 1971 - 1973, lên đến 6 triệu; trung bình 1 vạn dân có 2500 học sinh và 61 sinh viên đại học.
Các cơ sở khám chữa bệnh được khôi phục và xây dựng mới, số bệnh viện tăng từ 252 (năm 1965) lên 431 (năm 1971), tỉ lệ bác sĩ/ 1 vạn dân đạt 11/10.000.
2. Chi viện cho miền Nam
Năm 1969, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua tuyến đường 559 đạt 170.000 tấn, tăng 29% so với năm 1968; hơn 80.000 quân cũng được điều động vào chi viện cho các chiến trường miền Nam trong năm này.
Tháng 6/1970, Bộ chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức, huy động sức mạnh của hậu phương miền Bắc, chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam và Lào, Campuchia.
Trong năm 1970, 1971, miền Bắc đã tiếp tục đưa thêm 195.000 quân vào chiến trường miền Nam cùng với một khối lượng lớn vật chất, phương tiện phục vụ chiến tranh.
Đầu năm 1972, giữa lúc nhân dân miền Bắc đang khẩn trương thực hiện kế hoạch nhà nước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng thì đế quốc Mĩ lại gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.

Câu 105: Trình bày diễn biến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II của Mĩ (1972 - 1973) ở miền Bắc.
Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân dân ta ở miền Nam, Nich – xơn ra lệnh ném bom, bắn phá trở lại miền Bắc và ồ ạt tham chiến ở miền Nam nhằm cứu vãn tình thế.
Ngày 06/4/1972, Mĩ đã cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972 Nich - xơn tuyên bố chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
Miền Bắc đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sang thời chiến. Các lực lượng vũ trang nhân dân của ta đã được chuẩn bị trước và luôn trong tư thế thế sẵn sàng chiến đấu. Nhờ vậy, quân dân miền Bắc đã chủ động, lập tức chống trả địch ngay từ trận đầu.
Chỉ trong vòng 1 tháng (6/4 - 8/5/1972), ta đã bắn rơi 90 máy bay địch, bắn cháy 20 tàu chiến và bắt sống nhiều giặc lái; đồng thời vẫn đảm bảo thông suốt các tuyến đường chiến lược chi viện cho tiền tuyến.
Từ ngày 18 đến hết ngày 29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích chiến lược không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác ở miền Bắc nước ta.
Với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, ngay trong đêm đầu tiên địch bắn phá, ta đã hạ 3 chiếc B52. Tổng cộng trong suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972, ta đã hạ 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111, 21 máy bay F4, 12 máy bay A7, 1 máy bay F105, 4 máy bay A6, bắt sống 44 giặc lái, bắn chìm và phá hỏng 9 tàu chiến.
Do bị thiệt hại quá nặng nề, ngày 15/1/1973, Mĩ tuyên bố ngưng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền Bắc để kí kết hiệp định Pari. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của nhân dân miền Bắc kết thúc thắng lợi.

Câu 106: Đấu tranh đòi Mĩ xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc như thế nào?
Đầu năm 1967, ta đã chủ trương mở thêm mặt trận tấn công ngoại giao với mục tiêu trước mắt là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện hoạt động bắn phá miền Bắc.
Ngày 31/3/1968, sau đòn tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân 1968, Giôn-xơn đã ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và tuyên bố sẽ thương lượng với ta.
Ngày 13/5/1968, cuộc thương lượng chính thức giữa hai bên (Việt Nam và Hoa Kì) đã họp phiên đầu tiên tại Paris. Phía Việt Nam đã khẳng định lập trường không thay đổi của mình: Trước hết, Mĩ phải chấm dứt không điều kiện hoạt động ném bom và mọi hành động chiến tranh khác trên tòan miền Bắc, sau đó mới bàn đến các vấn đề khác.
Ngày 01/11/1968, Giôn-xơn đã tuyên bố ngừng hoàn toàn mọi hoạt động ném bom bắn phá miền Bắc để thúc đẩy tiến trình đàm phán. Kết quả, hai bên đã thống nhất mở rộng Hội nghị thành Hội nghị 4 bên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, Mĩ và Việt Nam Cộng Hòa.


Câu 107 : Trình bày diến biến cuộc đấu tranh đòi Mĩ chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam.
Sau cuộc họp trù bị vào ngày 18/01/1969, Hội nghị 4 bên đã chính thức họp phiên đầu tiên vào ngày 25/1/1969 tại Paris.
Hội nghị 4 bên đã trải qua nhiều cuộc họp chung công khai và nhiều cuộc tiếp xúc riêng bí mật. Trong quá trình đàm phán, lập trường của 4 bên (mà thực chất là 2 bên – Việt Nam và Mĩ) mâu thuẫn nhau gay gắt:
+ Phía Việt Nam: Kiên quyết đòi phía Mĩ phải rút hết quân viễn chinh cùng quân chư hầu về nước và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
+ Về phía Mĩ: Chúng đòi phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải “có qua có lại”, tức là cả quân miền Bắc và quân Mĩ cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Những mâu thuẫn đó đã làm cho cuộc thương lượng kéo dài, căng thẳng, quyết liệt và bị gián đoạn nhiều lần, kéo dài đến cuối năm 1972 vẫn chưa có kết quả.


Câu 108: Miền Bắc đã khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam sau Hiệp định Pari như thế nào?
Miền Bắc đã khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế.
Sau Hiệp định Pa – ri, quân Mĩ và đồng minh của Mĩ rút về nước, tình hình so sánh lực lượng thay đổi theo hướng có lợi cho cách mạng miền Nam. Miền Bắc trở lại hòa bình, có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam.
Trong hai năm 1973 – 1974, trên khắp miền Bắc, giai cấp công nhân, nông dân tập thể, tri thức…đã hăng hái lao động, sản xuất. Nhờ vậy, những hậu quả của hai cuộc chiến tranh phá hoại nhanh chóng được khắc phục, nền kinh tế từng bước khôi phục và phát triển.
Cuối tháng 6 năm 1973, miền Bắc đã hoàn thành công tác tháo gỡ bom mìn.
Đến cuối năm 1974, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, kinh tế về cơ bản đã được khôi phục, các cơ sở cũng đi vào ổn định và có bước phát triển mới. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 (trước chiến tranh phá hoại), năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%.
Những kết quả trên đã góp phần ổn định đời sống nhân dân miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi để miền Bắc chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ - Ngụy ở miền Nam và Lào, Campuchia trong giai đoạn 1973 – 1975.
Miền Bắc đã tăng cường chi viện cho miền Nam.
Ngay sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết, Đảng và Nhà nước đã chủ trương tập trung sức người, sức của sẳn sàng chi viện đột xuất cho miền Nam.
Trong năm 1973 - 1974, 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật đã được đưa vào chi viện cho miền Nam. Đặc biệt trong những tháng đầu năm 1975, miền Bắc đã đưa 57.000 bộ đội vào chiến trường miền Nam.
Từ mùa khô 1973 – 1974, đến đầu mùa khô 1974 – 1975, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam một lượng hàng hoá, phương tiện, vũ khí rất lớn: 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng, xăng dầu,… tăng gấp 9 lần so với năm 1972.
Bên cạnh đó, miền Bắc còn viện trợ cho Lào và Campuchia








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét