Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

ĐỀ THI HSG QUỐC GIA MÔN SỬ NĂM 1997


Câu 1- Lịch sử Việt Nam
Bình luận câu nói sau đây của lãnh tụ Hồ Chí Minh trên cơ sở phân tích bối cảnh lịch sử nuớc ta truớc khi cách mạng tháng Tám bùng nổ: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Anh (chị) hãy chọn và phân tích một sự kiện lịch sử trong tiến trình lịch sử Việt Nam truớc năm 1858 đê thấy đuợc tầm quan trọng của thời cơ trong cuộc chiến đấu chống xâm lược.
Câu 2- Lịch sử thế giói
Trình bày và phân tích nguyên nhân của sự phát triển kinh tế Mỹ và Nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ hai. Từ đấy, anh (chị) hãy phát biêu nhận thức của mình về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
BÀI LÀM
Câu 1- Lịch sử Việt Nam: Chủ đề của bài nói về việc nắm thời cơ và hành động của Cách mạng
tháng Tám 1945 và liên hệ tới những sự kiện trong lịch sử dân tộc.
Trong bất cứ một cuộc chiến đấu nào, thời cơ cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Xác định thời cơ, nắm bắt và phát huy triệt để thời cơ chiến lược trong chiến đấu có thể tạo nên thắng lợi quyết định, chiến lược, xoay chuyển và làm thay đổi toàn bộ cục diện chiến tranh. Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Chúng ta phải nhiều lần đương đầu với kẻ thù hung bạo và cường thịnh đế bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam. Trong những cuộc chiến đấu đó, vấn đề thời cơ quyết chiến chiến lược luôn luôn được ông cha ta nắm bắt, khai thác và sử dụng triệt đê, góp phần tạo nên thắng lợi quyết định để giữ vừng độc lập và chủ quyền của Tổ quốc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc Tổng khởi nghĩa của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã vùng dậy giành thắng lợi nhanh chóng trong 15 ngày. Trong quá trình đó, việc nắm thời cơ đe hành động là một nhân tố quan trọng tạo nên thắng lợi. Thời cơ của cách mạng tháng Tám 1945 là thời cơ ngàn năm có một...Dân tộc ta đã nắm bắt và tiến hành đấu tranh với một quyết tâm rất cao; đúng như lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập ” Câu nói vừa thể hiện thời cơ đã đến, vừa nêu rõ quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi. Thực tiễn đã chứng minh điều này.
Trước khi cách mạng tháng Tám bùng nô, không khí cách mạng trong nước ngày càng sôi nôi, hào hùng. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đang trong những ngày đấu tranh sôi nổi và mạnh mẽ nhất. Lúc đó, Bác Hồ ốm nặng, tưởng không qua khỏi, như lời trăn trối của một người sắp đi xa, Bác đã dặn dò Đại tướng Võ Nguyên Giáp như trên. Lời nói của Bác là sự khái quát và đúc kết cô đọng tình hình cách mạng Việt Nam trước tháng Tám, về nắm vừng thời cơ cách mạng và the hiện một ý chí quyết tâm tới cao độ, quyết giành cho được độc lập, tự do của dân tộc ta.
Cách mạng tháng tám chỉ diễn ra và giành thắng lợi trong 15 ngày, nhưng là kết quả đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong 15 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ lúc Đảng ra đời(3/2/1930), với đường lối cách mạng đúng đắn, soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam, nhân dân ta tiến hành cuộc tập dượt lần thứ nhất - phong trào cách mạng 1930 - 1931, cuộc tập dượt lần thứ hai - phong trào dân chủ 1936 - 1939, rồi phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 với sự chuyền hướng chỉ đạo chiến lược tại Hội nghị TW tháng 11/1939 và hoàn chỉnh tại Hội nghị TW 8(5/1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vị trí hàng đầu, chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, hình thức đấu tranh ngày càng phong phú, quyết liệt. Tới năm 1945, tình thế cách mạng xuất hiện với không khí tiền khởi nghĩa.
ơ trong nước, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp đế độc chiếm Đông Dương, gây ra tình trạng khủng hoảng về chính trị. Hội nghị thường vụ TW Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước sôi động trong toàn quốc nêu cao khâu hiệu “Đánh đuôi phát xít Nhật”, giành độc lập và lập nên Chính phủ dân chủ cộng hòa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, cả dân tộc ta đứng dậy đấu tranh, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, khắp nơi sôi sục không khí khởi nghĩa và cuộc đấu tranh ở các thành phố sẵn sàng nổ ra. Việt Minh tổ chức nhũng cuộc diễn thuyết chớp nhoáng, tố cáo tội ác phát xít Nhật, trừ khử những tên Việt gian gian ác. Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi ngày 11/3/1945) nô ra với sự ra đời của Đội du kích Ba Tơ, tăng thêm lực lượng vũ trang của cách mạng. Ở vùng nông thôn, phong trào phá kho thóc, diệt ác, trừ gian diễn ra sôi nổi. Nhìn chung, trong cao trào “Kháng Nhật cứu nước”, toàn dân ta đứng dậy, đầy quyết tâm, sôi noi; tình thế cách mạng đã tới.
Ngoài nước, Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi vào hồi kết thúc. Quân Đông minh phản công, tiêu diệt phát xít trên khắp chiến trường, phc phát xít liên tục thất bại. Ớ châu Âu, Đức đầu hàng (5/1945), phát xít Italia đã thất bại; ớ châu Á phát xít Nhật thảm bại trên các chiến trường, giãy giụa trong cơn hấp hối. Tình hình thế giới đang hết sức sôi động, cao trào cách mạng ở Việt Nam cũng hòa trong không khí như vũ bão của quân Đồng minh, khiến quân Nhật tại Đông Dương và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim ở tình thế vô cùng khó khăn, lung lay và rệu rã.
Bối cảnh lịch sử của Việt Nam và thế giới năm 1945 cho thấy thời cơ cách mạng đã đến gần. Đó thực sự là một “thời cơ thuận lợi” cho cả dân tộc ta trong cuộc nổi dậy giành chính quyền. Đảng và nhân dân ta trên dưới một lòng, tràn trề quyết tâm và khí thế, dù hy sinh tới đâu, dù phải dût cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập ”, với lúc này không chỉ là “thời cơ thuận lợi” theo đà tiến triển của tình hình, nó trở thành thời cơ ungàn năm có một” đối với dân tộc ta.
Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, quân Nhật ở Đông Dương suy sụp và khủng hoảng tinh thần trầm trọng, kéo theo sự khủng hoảng của chính quyền bù nhìn.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, theo thỏa thuận tại Hội nghị Pôtxđam, quân Đông minh sẽ vào nước ta để giải giáp quân đội Nhật
Như vậy, thời Cơ cách mạng chỉ tồn tại từ khi Nhật đầu hàng đến lúc quân Đồng minh vào Đông Dương. Ta phải nắm bắt đúng thời cơ này, nếu cách mạng nổ ra sớm, quân Nhật còn tinh thần sẽ gây khó khăn cho ta; nếu muộn, quân Đồng minh vào Việt Nam thì thời cơ không còn nữa. Đảng ta đã xác định đúng thời cơ cách mạng, phát lệnh Tông khởi nghĩa sau Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ 13 đến 15/8/1945) trong cả nước.
Nắm bắt đúng thời cơ là một nhân tố quyết định khiến cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám diễn ra nhanh chóng và ít đô máu.
Tóm lại, lời nói của Bác là sự đúc kết cô đọng và trọn vẹn về thời cơ của cách mạng Việt Nam năm 1945, về tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc khi đứng lên Tổng khởi nghĩa. Lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh - con người của những bước ngoặc lịch sử - luôn sáng suốt, đúng đắn, soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam. Điều này được chứng minh một cách rõ rệt với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945. Lời nói của Bác không chỉ có ý nghĩa đối với giai đoạn lịch sử đương thời mà còn có tác dụng trong cả tiến trình lịch sử Việt Nam; nó thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc trong những thời diêm có ý nghĩa quyết định của lịch sử, khi dân tộc ta đánh những trận quyết chiến chiến lược, như Điện Biên Phủ (1954), chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) đề hình thành cục diện chiến tranh có lợi cho ta, giành thắng lợi hoàn toàn cho dân tộc. Ghi nhớ lời nói của Bác sẽ giúp các thế hệ Việt Nam có tinh thần, có quyết tâm bảo vệ, xây dựng To quốc Việt Nam XHCN hiện nay và mai sau.
Có thê nói, Cách mạng tháng Tám 1945 là sự thê hiện khả năng nắm bắt tài tình thời cơ chiến lược của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, tầm quan trọng của thời cơ trong cuộc chiến đấu chống xâm lược đã là một trong những nghệ thuật quân sự Việt Nam từ lâu đời, nó đã chứng minh được tầm quan trọng trong nhiều trận chiến lịch sử của dân tộc như: Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa... Bài viết này, em xin đề cập tới chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa (1789) của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo thiên tài của Quang Trung, đánh thắng quân Thanh xâm lược, để thấy rõ tầm quan trọng của thời cơ trong cuộc chiến đấu chống xâm lược.
Năm 1788, ông vua đớn hèn Lê Chiêu Thống - triều vua cuối cùng của nhà hậu Lê đã chạy sang Trung Quốc cầu viện và móc 29 vạn quân Mãn Thanh sang xâm lược đất nước ta.
Quân Tây Sơn rút về phòng thủ tại Tam Điệp và cấp báo với Nguyễn Huệ tại Phú Xuân. Nhận được tin báo, Nguyễn Huệ tập trung lực lượng, lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung, chia quân thành 5 cánh thủy bộ tiến ra Bắc tiêu diệt quân xâm lược.
Với một cuộc hành quân thần tốc, lực lượng quân Tây Sơn không ngừng lớn mạnh trên đường tiến ra Bắc. Vào dịp Tet âm lịch 1789, vua Quang Trung cho quân ăn Tet sớm và hẹn tới mồng 7 Tet sẽ vào Thăng Long, đánh địch trong lúc chúng sơ hở, chủ quan về lực lượng và ưu thế của chúng.
Thời cơ quyết chiến mà vua Quang Trung lựa chọn là vào dịp Tet Nguyên đán - một thời co chiến lược. Quân ta đánh nhanh trong 5 ngày, với chiến công rực rờ ở Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa..., đánh tan quân tinh nhuệ và đông đảo của Mãn Thanh...
Chiến thắng của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (1789) là một trong những chiến thắng thể hiện sự mẫu mực về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lực lượng ta nhỏ nên phải tiến nhanh, thần tốc, đánh đúng thời cơ, lúc địch sơ hớ, chủ quan đê nhanh chóng giành thắng lợi. Trận Đống Đa, nếu Quang Trung không nắm bắt đúng thời cơ để quyết chiến chiến lược; giành thắng lợi quyết định thì không biết kết quả của chiến tranh sẽ ra sao, cho thấy thời cơ là một yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, giúp ta xoay chuyến cục diện và nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Trận Ngọc Hồi - Đống Đa trên đây chỉ là một dẫn chứng tiêu biểu theo sự lựa chọn chủ quan của bản thân em. Ngoài trận Ngọc Hồi - Đống Đa, lịch sử dân tộc Việt Nam còn rất nhiều trận đánh mẫu mực về nghệ thuật quân sự và nắm bắt thời cơ; là những mốc son trong lịch sử nước nhà: Bạch Đằng (938), Bạch Đằng (1288), Chi Lăng - Xương Giang, Đống Đa, Điện Biên Phủ (1954), chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).
Câu 2- Lịch sử thế giới
Nội dung chủ yếu của đề là nói về sự phát triên kinh tế của Mỳ, Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân, bản chất của nó.
Hiện nay, Mỳ, Nhật là những cường quốc kinh tế trên thế giới. Đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), cả hai nước có những bước dài trên chặng đường phát trien kinh tế, trở thành siêu cường nhất, nhì thế giới. Vậy nguyên nhân nào đã dẫn tới những bước phát triển đó? Chúng ta hãy cùng tìm hiêu vấn đề này.
Đối với Mỹ
Hoa Kỳ là quốc gia được thiên nhiên đặc biệt ưu đãi diện tích rộng, giàu tài nguyên, đặc biệt có nhiều tài nguyên quý, tạo cơ sở cho việc phát triển kinh tế: vàng, than, dầu mỏ,...
về lịch sử, nhờ có Đại Tây Dương và Thái Bình Dương bao bọc, lại cách xa trung tâm chiến tranh thế giới nên không bị tàn phá và thiệt hại. Cho nên Mỳ luôn thu lợi nhờ buôn bán vũ khí và phương tiện chiến tranh; đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Mỳ phát triển đến đỉnh cao, là giai đoạn hoàng kim của Mỹ (1945 - 1950), Mỹ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính số một của thế giới tư bản chủ nghĩa.
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm tới việc phát triên kinh tế, khoa học - kỳ thuật, là một trong những quốc gia đầu tiên có đầu tư lớn nhất cho khoa học. Chính vì thế, Mỳ luôn là nước đi đầu trong việc phát minh ra khoa học và áp dụng khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất, tạo ra sức phát triển mạnh mẽ và cường thịnh của nền kinh tế Mỹ.
về vấn đề giáo dục - đào tạo con người cũng được Mỹ đặc biệt chú trọng, nhằm đào tạo ra các thế hệ lao động có trình độ văn hóa - kỳ thuật để góp công sức vào việc phát triển kinh tế ngày càng vũng mạnh. Đặc biệt môn Lịch sử rất được coi trọng trong giáo dục của Mỹ đế sinh viên, học sinh hiểu và tự hào về lịch sử nước mình.
Sự phát triển nền kinh tế giúp Mỳ có ưu thế về chính trị, quân sự trên toàn cầu. Ngược lại, ưu thế về chính trị, quân sự giúp Mỹ có điều kiện phát triển kinh tế mạnh và chắc hơn.
Đối với Nhật Bản: về điều kiện tự nhiên, lịch sử, Nhật Bản không được “ưu đãi” như Mỹ. Hơn nữa, Nhật ra khỏi chiến tranh thế giới thứ hai là kẻ thất bại, gặp nhiều khó khăn nhưng đã vươn lên đứng vừng và ngày càng phát triển.
Chính phủ Nhật tỏ ra năng động và linh hoạt trong việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Cho nên kinh tế Nhật cũng có bước phát triển năng động, linh hoạt nhờ nhừng chủ trương, biện pháp đúng đắn của Chính phủ.
Nhật Bản rất chú trọng tới vấn đề đào tạo và giáo dục. Người lao động Nhật Bản luôn giữ vừng bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp nhận tri thức và văn minh nhân loại. Họ được đào tạo một cách Cơ bản, khoa học và có khả năng thích nghi nhanh nhạy với những tiến bộ mới, cho thấy nhân tố con người là nguyên nhân quan trọng đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản.
Sự giúp đỡ của Mỳ trong chiến tranh có tác động lớn đến nền kinh tế Nhật Bản. Đặc biệt qua các cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975), những đơn đặt hàng quân sự của Mĩ thực sự là “ngọn lửa thần” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản.
Nhật Bản cũng là một quốc gia rất chú trọng và đầu tư nhiều khoa học - kỹ thuật. Từ việc tiếp nhận vác thành tựu khoa học - kỳ thuật, Nhật Bản đã dần tự lực nâng cao trình độ khoa học - kỳ thuật của bản thân để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cuối cùng, phải kể tới sự thay đổi linh hoạt cơ cấu kinh tế của Nhật Bản. Đặc biệt, sau khủng hoảng dầu mỏ (1973), Nhật chú trọng phát triển các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng nhiều “Chất xám”, sử dụng ít nguyên liệu nhưng hiệu quả kinh tế rất cao (điện tử vi tính,...)
Qua việc tìm hiểu nguyên nhân phát triển kinh tế Mỹ, Nhật sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), ta có thê nhận thức một số nét cơ bản về bản chất của CNTB hiện đại.
CNTB hiện đại là CNTB độc quyền lũng đoạn Nhà nước. Các công ty lớn, các chủ doanh nghiệp vừa là những nhà kinh doanh, vừa có vị trí to lớn trong đời sống chính trị của quốc gia.
Cách mạng khoa học - kỹ thuật luôn được chú trọng, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng năng lượng (1973), các nước tư bản đều đi sâu vào khoa học - kỹ thuật, chú ý tới phát triển công nghệ, cải cách cơ cấu kinh tế, tìm cách thích nghi về chính trị - xã hội để thóat khỏi khủng hoảng và phát triển mạnh mẽ.
Các nước tư bản rất chú trọng tới vấn đề con người, coi trọng giáo dục, đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề là nguồn lực phát triển kinh tế.
Sự liên minh quốc tế của CNTB ngày càng sâu sắc, với sự hình thành những công ty quốc gia. Tuy nhiên, trong sự phát triên chung của nhân loại, môi quan hệ giữa các nước tư bản phát triên với các nước đang phát triển ngày càng có những thay đổi đáng kể.
CNTB hiện đại chỉ thay đôi về hình thái chứ không thay đôi về bản chất. Trong lòng CNTB hiện đại luôn chứa đựng những mâu thuẫn, những hạn chế không thể nào khắc phục được. Đó là mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, mâu thuẫn giữa những người quá giàu và quá nghèo trong xã hội.
Trong xã hội có nhiều hiện tượng tiêu cực, mức sống chênh lệch, tệ nạn xã hội, ma túy và bạo lực.
Có thể nói, CNTB sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) chuyển sang một giai đoạn mới, được coi là CNTB hiện đại. CNTB hiện đại ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ, nhảy vọt về kinh tế, song nó chỉ thay đôi về mặt hình thái chứ không thay đôi về bản chất, nó chứa đựng những mâu thuẫn và hạn chế không thể nào khắc phục được. Tuy nhiên, cũng không thể hoàn toàn phủ nhận mọi thành tựu của nó. Vận mệnh của CNTB hiện đại phụ thuộc vào tinh thần, yeu cầu và sự đấu tranh của nhân dân nước này, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét