GIAI
ĐOẠN 1954-1975
CÁCH
MẠNG MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975
Câu 79 : Trình bày đặc điểm tình hình hai miền Nam – Bắc
sau hiệp định Giơ-ne-vơ.
1. Miền Bắc
Sau khi
hiệp định được kí kết, thực dân Pháp cố tình trì hoãn rút quân. Ta đã đấu tranh
buộc quân Pháp phải rút khỏi Hà Nội vào ngày 10 tháng 10 năm 1954.
Ngày 01/01/1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã về đến Hà Nội.
Trong khi rút quân, thực dân Pháp đã phá họai cơ sở hạn tầng kinh tế ở
miền Bắc, đồng thời chúng cùng với Mĩ – Diệm dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng
bào Công giáo vào miền Nam.
Ngày 13/5/1955, quân Pháp hoàn toàn rút khỏi miền Bắc nước ta.
2. Miền Nam
Chúng ta
thực hiện nghiêm chỉnh việc đình chiến, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu
vực.
Trước khi
Hiệp định được kí kết, Mĩ đã ép Pháp phải đưa tay sai của Mĩ là Ngô Đình Diệm
vào chính phủ bù nhìn của Bảo Đại. Sau đó, Mĩ đã không kí vào bản cam kết thực
hiện Hiệp định.
Hai ngày sau khi Hiệp định được kí kết, ngoại trưởng Mĩ
đã tuyên bố can thiệp vào miền Nam Việt Nam để “ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á”.
Ngày 14
tháng 5 năm 1956, Chính phủ Pháp thông báo sẽ rút hết quân viễn chinh ở miền
Nam về nước, trút bỏ trách nhiệm thi hành nhiều điều khoản còn lại của hiệp
định, trong đó có việc tổ chức tổng tuyển cử ở hai miền Nam Bắc cho chính quyền
Ngô Đình Diệm.
=>
Miền Nam rơi vào tay đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai.
Câu 80: Trình bày nhiệm vụ và vai trò cách mạng Việt Nam
sau Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Những âm
mưu của Mĩ – Diệm ở miền Nam đã đưa đất nước đứng trước nguy cơ bị chia cắt lâu
dài; miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, miền Nam rơi vào tay đế quốc Mĩ. Trước
tình thế đó, Đảng ta đã đề ra hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau cho hai miền:
Miền Bắc: chuyển sang giai đoạn cách mạng Xã hội Chủ nghĩa
nhằm hoàn thành cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục
kinh tế… xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và hậu phương
vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam.
Miền Nam: Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mĩ, tiến đến giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai nhiệm vụ trên tuy khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích
chung là đánh đổ đế quốc Mĩ và tay sai của chúng để đi đến thống nhất đất nước.
Trong đó, miền Bắc giữ vai trò là hậu phương, đảm bảo cho sự thắng lợi của toàn
cuộc cách mạng; miền Nam là tiền tuyến trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ và
tay sai.
*Vai trò và mối quan hệ
của cách mạng hai miền :
- Miền Bắc
là hậu phương có vai trò quyết định nhất, còn Miền Nam là tiền tuyến
có vai trò quyết định trực tiếp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung, trước hết
là đánh bại đế quốc Mỹ, giải phóng MiềnNam .
- Cách mạng hai
miền có mối quan hệ gắn bó với nhau, phối hợp nhau, tạo điều kiện cho nhau phát
triển. Đó là quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến.
Câu 81: Trình bày âm mưu chiến
lược của Mĩ – Diệm ở miền Nam sau Hiệp định Giơ – ne – vơ.
Sau khi thực dân Pháp thất bại, Mĩ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam.
Ngày 7/11/1954, Mĩ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam với âm
mưu biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mạng XHCN
ở Đông Nam Á.
Dựa vào Mĩ, Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng dựng lên một
chính quyền độc tài, gia đình trị ở miền Nam và ra sức chống phá cách mạng.
Giữa năm 1954, Diệm lập ra đảng Cần lao nhân vị làm đảng
cầm quyền.
Cuối năm 1954, chúng thành lập “phong trào cách mạng quốc
gia” và đưa ra mục tiêu: “chống cộng, đả thực, bài phong”.
Tháng 10/1955, Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, phế truất
Bảo Đại.
Tháng 3/1956, Diệm tổ chức bầu cử và thành lập Quốc hội
lập hiến ở miền Nam, bất chấp hiệp định Giơ-ne-vơ; đến tháng 10/1956, Diệm cho
ban hành Hiến pháp và lập ra cái gọi là “Nước Việt Nam Cộng Hòa”.
Sau khi đứng vững ở miền Nam, Diệm bắt đầu đẩy mạnh chiến
dịch “tố cộng”, “diệt cộng”; vây bắt, tàn sát, tù đày những người kháng chiến
cũ, những người đấu tranh đòi tuyển cử thống nhất đất nước và cả những người
không phục tùng chúng với phương châm “tiêu diệt cộng sản không thương tiếc”,
“thà giết lầm còn hơn bỏ sót”… nhằm làm nhụt ý chí đấu tranh của nhân dân ta ở
miền Nam.
Chính quyền Diệm còn thực hiện chương trình cải cách điền
địa nhằm lấy lại ruộng đất mà cách mạng đã giao cho nhân dân, lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp
nhân dân.
Chính quyền Ngô Đình Diệm còn gây nhiều tội ác đối với
nhân dân:
Ngày 04/9/1954, chúng tàn sát nhân dân ở Chợ Được – Quảng
Nam làm 39 người chết, 37 người bị thương.
Ngày 21/01/1955, chúng trả thù những người kháng chiến cũ
ở Vĩnh Trinh (Quảng Nam).
Ngày 01/12/1958, chúng đầu độc 6000 người yêu nước ở nhà
tù Phú Lợi, làm hơn 1000 người chết.
Nghiêm trọng hơn, Diệm ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài
vòng pháp luật” và tháng 5/1959, ra đạo luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam
giết hại những người vô tội.
Câu 82 : Nhân dân miền
Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng
(1954 – 1959) như thế nào?
Sau Hiệp
định Giơ-ne-vơ, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ
mới cho cách mạng miền Nam là: chuyển từ cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang cuộc
đấu tranh chính trị chống Mĩ – Diệm đòi chúng thi hành Hiệp định để củng cố hòa
bình, giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo đó, tháng 8 năm 1954, phong trào hòa bình
của tri thức và các tầng lớp nhân dân ra đời ở Sài Gòn – Chợ Lớn đã tổ chức
nhiều cuộc Mittinh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, hiệp thương tổng tuyển
cử…, nhưng đã bị chính quyền Diệm đàn áp và khủng bố.
Tiếp sau đó, phong trào chống “trưng cầu dân ý”, chống
bầu cử quốc hội, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống
khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, đòi quyền tự do dân
chủ… lại tiếp tục dâng cao và lan rộng từ thành thị đến nông thôn.
Các cuộc đấu tranh chính trị hòa bình của ta đã bị chính
sách khủng bố và tàn sát dã man của Diệm dìm trong bể máu, lực lượng cách mạng
tổn thất nặng nề: nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt bớ, giam cầm và giết hại.
Nhưng cũng chính sự tàn bạo đó của Diệm đã làm cho tinh thần cách mạng của quần
chúng ngày càng dâng cao.
Câu 83: Trình bày hoàn cảnh, diễn biến, kết quả và ý
nghĩa của phong trào Đồng Khởi 1959 – 1960.
Những tổn
thất to lớn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1959 cho thấy, chủ
trương đấu tranh chính trị hòa bình đã không còn thích hợp, cách mạng miền Nam
cần phải có một đường lối đấu tranh mới.
Tháng
01/1959, Trung ương Đảng đã tiến hành hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 15; Hội nghị
đã ra nghị quyết xác định: con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng lực lượng chính trị của quần chúng
là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân.
Sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của nghị quyết 15 như một ngọn gió thổi bùng lên ngọn
lửa cách mạng; phong trào Đồng Khởi bùng lên khắp miền Nam.
Mở đầu là
cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Thạnh (Bình Định) và Bắc Ái (Ninh Thuận) vào 02/1959.
Sau đó lan đến Trà Bồng (Quảng Ngãi) – 8/1959 và đặc biệt là cao trào Đồng Khởi
ở Bến Tre:
Ngày 17/01/1960, tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo nhân dân 3 xã
Định Thủy, Phước Hiệp và Bình Khánh (Mỏ Cày) với gậy, gộc, súng ống… đồng loạt
nổi dậy đánh đồn bốt và giải tán chính quyền địch.
Cuộc nổi dậy lan khắp huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre, phá
tan từng mảng lớn bộ máy cai trị của địch, thành lập chính quyền cách mạng,
chia ruộng đất cho dân cày nghèo.
Từ Bến Tre, phong trào lan rộng khắp Nam Bộ, Tây Nguyên
và một số nơi ở Trung Trung bộ.
Đến cuối năm 1960, ta đã giải phóng được 600/1298 xã ở
Nam bộ, 904/3829 thôn ở Trung bộ, 3200/5721 thôn ở Tây Nguyên.
Trên đà thắng lợi, ngày
20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, trực tiếp
lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng miền Nam.
* Ý nghĩa của phong trào
Đồng Khởi
Phong trào Đồng Khởi đã giáng một đòn nặng nề vào chính
sách thực dân mới của Mĩ ở miền Nam; làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm.
Đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến côngvà làm thất bại chiến lược “chiến tranh đơn
phương” của Mĩ - Diệm
Câu 84: Hãy cho biết âm mưu và thủ đoạn của Mĩ
trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam.
1.
Âm mưu chiến lược mới của Mĩ – “chiến tranh đặc
biệt”
Sau phong trào Đồng Khởi, chiến lược chiến tranh đơn phương hoàn toàn
thất bại, của Mĩ – Ngụy phải đối mặt với một thực tế là phong trào cách mạng
miền Nam đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền
Nam, Mĩ đề ra chiến lược chiến tranh mới – “chiến tranh đặc biệt”.
Đây là
hình thức chiến tranh xâm lược mới của Mĩ được tiến hành bằng quân đội tay sai
dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn quân sự Mĩ, dựa vào vũ khí, trang thiết bị
kĩ thuật và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mĩ nhằm chống lại lực lượng
cách mạng và nhân dân ta. Thực chất đây là âm mưu dùng người Việt đánh người
Việt của Mĩ.
Lúc đầu,
Mĩ dự định thực hiện chiến lược này bằng kế hoạch Stalay-Taylor với mục tiêu bình định miền Nam trong
vòng 18 tháng. Nhưng Mĩ đã không thành công và phải giảm mục tiêu xuống bằng một kế
hoạch mới – kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra – bình định miền Nam có trọng
điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965)
2. Mĩ – Ngụy triển khai chiến lược “chiến tranh đặc
biệt”
Mĩ đã tăng
cường viện trợ quân sự cho Ngô Đình Diệm, đưa lực lượng cố vấn quân sự và hỗ
trợ chiến tranh vào miền Nam Việt Nam với số lượng ngày càng lớn: Cuối năm
1960: 1.100, cuối 1962: 11.000, cuối 1964: 26.000.
Ngày
08/02/1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập ở Sài Gòn.
Ngụy ra sức bắt lính để tăng nhanh quân số: giữa năm 1961: 170.000 quân,
đến cuối năm 1964: 560.000 quân.
Quân đội
Sài Gòn được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, đặc biệt là
chúng đưa vào sử dụng chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.
“Ấp chiến
lược” được Mĩ và Ngụy coi như “xương sống” của “chiến tranh đặc biệt”, chúng đã
ráo riết tiến hành dồn dân, lập “ấp chiến lược” để tách lực lượng cách mạng
khỏi quần chúng, “tát nước bắt cá”, tiến tới năm dân và “bình định” miền Nam.
Dựa vào sự
hỗ trợ và chỉ huy của cố vấn Mĩ, Ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn
quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng; tiến hành nhiều họat động phá hoại
miền Bắc, kiểm soát, phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chăn sự tiếp viện
của miền Bắc vào miền Nam.
Câu 84: Quân dân miền Nam chiến đấu chống “chiến tranh
đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam Việt Nam như thế nào?
1. Hoàn chỉnh về tổ chức lãnh đạo cách mạng
Ngày
20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Tháng
01/1961, Trung ương cục miền Nam thành lập thay cho Xứ ủy Nam bộ cũ.
Ngày
15/02/1961, các lực lượng vũ trang cách mạng đã thống nhất thành quân giải
phóng miền Nam Việt Nam.
2. Đánh bại kế hoạch Stalây – Taylor 1961 – 1963
Trên mặt trận chính trị:
Ngày
8/5/1963, 2 vạn tăng ni, phật tử ở Huế biểu tình phản đối chính quyền Diệm cấm
treo cờ phật. Diệm đàn áp làm cho phong trào lan rộng khắp cả nước.
Ngày 11/6/1963, tại Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức
đã tự thiêu để phản đối Diệm đàn áp Phật giáo.
Ngày 16/6/1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm
cho chế độ Mĩ Diệm lay chuyển.
Trước tình hình đó, ngày 01/11/1963, Mĩ đã ủng hộ Dương
Văn Minh làm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm.
Trên mặt trận chống và phá “Ấp chiến lược”:
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch
trong việc lập và phá “ấp chiến lược” diễn ra gay go và quyết liệt. Đến cuối
năm 1962, gần 8000 ấp chiến lược với 70% nông dân toàn miền Nam vẫn còn do cách
mạng kiểm soát.
Trên mặt trận quân sự:
Năm 1962,
quân giải phóng cùng với nhân dân đã liên tiếp đánh bại nhiều cuộc hành quân
càn quét của Ngụy vào chiến khu Đ, Tây Ninh, phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn…
Đặc biệt, tháng 01/1963, quân dân miền Nam đã giành chiến
thắng vang dội ở Ấp Bắc – Mĩ Tho. Với lực lượng ít hơn địch 10 lần, ta đã đánh
bại cuộc hành quân càn quét của hơn 20000 quân ngụy dưới sự chỉ huy của cố vấn
Mĩ và hỗ trợ của pháo binh, xe bọc thép và máy bay lên thẳng; diệt 450 tên
địch, 8 máy bay, 13 xe bọc thép.
Chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ quân dân miền Nam có khả năng
đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến thuật “thiết xa
vận”, “trực thăng vận” của Mĩ – Ngụy và làm bùng lên phong trào “thi đua Ấp
Bắc, giết giặc lập công ” trên khắp miền Nam.
Kết luận: những thắng lợi của ta trên khắp các mặt trận đã làm cho
Mĩ – Ngụy không thể hoàn thành kế hoạch Stalây-Taylor trong 18 tháng như dự định.
3. Đánh bại kế hoạch
Giôn xơn – Mác-na-ma-ra (1964 – 1965)
Trước sự thất bại của kế hoạch Stalây-Taylor, năm 1964,
Giôn-xơn đã đưa ra kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra để tiếp tục thực
hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt với mục tiêu bình định miền Nam có trọng
điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965).
Trên mặt trận chính trị
Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị (Sài Gòn,
Huế, Đà Nẵng) tiếp tục lên cao, đặc biệt là sau khi Nguyễn Khánh ra những sắc
lệnh phát xít mới và chính quyền Ngụy sát hại Nguyễn Văn Trỗi (15/10/1964).
Trên mặt trận chống phá
“Bình định”
Trong năm 1964 và đầu năm 1965, từng mãng lớn ấp chiến
lược do địch lập nên đã bị ta phá, nhiều ấp chiến lược đã trở thành căn cứ cách mạng, vùng tự do của ta
ngày càng được mở rộng.
Trên mặt trận quân sự
Kết hợp với đấu tranh chính trị, quân dân Đông Nam Bộ mở
chiến dịch tiến công Đông – Xuân 1964-1965:
Ngày 02/12/1964, quân ta đã thắng lớn ở Bình Giã (Bà
Rịa), tiêu diệt 17000 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
Sau chiến thắng Bình Giã, quân ta mở tiếp chiến dịch xuân
– hè 1965 và đã liên tiếp giành được thắng lợi ở An Lão (Bình Định), Ba Gia
(Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa); đánh dấu sự phá sản của kế hoạch Johnson –
Mc. Namara.
Kết luận: sự phá sản của
hai kế hoạch Stalay-taylor và Johnson-Mc. Namara đã làm cho chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ thất bại hoàn toàn.
Câu 85: Hãy cho biết hoàn cảnh, âm mưu và thủ đoạn
của Mĩ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam.
Đầu năm 1965, đứng
trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt,
Giônxơn đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”: ồ ạt đưa quân viễn
chinh, quân chư hầu cùng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền
Nam Việt Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc
Việt Nam.
Chiến lược “chiến tranh cục bộ” chính thức bắt đầu từ
giữa năm 1965. Đây là hình thức xâm lược thực dân mới được tiến hành bằng lực
lượng quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu và ngụy quân. Trong đó quân Mĩ giữ vai
trò quan trọng và không ngừng tăng lên
về số lượng lẫn trang bị.
Tính đến cuối năm 1964, lực lượng quân Mĩ có mặt ở miền
Nam khoảng 26.000, đến cuối năm 1965 là 200.000, đến cuối năm 1967 là 537.000.
Chưa kể 70.000 lính Mĩ ở Hạm đội 7 và 20.000 lính chư hầu sẳn sàng tham chiến.
Mĩ đã mở hàng loạt cuộc hành quân lớn với mục tiêu “tìm
diệt và bình định” nhằm vào các căn cứ cách mạng:
Mở đầu là cuộc hành quân “tìm diệt” mang tên “ánh sáng
sao”, đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Tường – Quảng Ngãi.
Tiếp đó Mĩ mở liên tiếp hai cuộc phản công lớn trong hai
mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 với hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và
“bình định” vào những vùng “đất thánh Việt Cộng”, hòng tiêu diệt cơ quan đầu
não và lực lượng kháng chiến của ta.
Câu 86: Quân dân miền
Nam đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ như thế nào?
1. Chiến thắng Vạn Tường
(Quảng Ngãi)
Ngày 18/08/1965, sau khi chiếm được Chu Lai, Mĩ đã huy
động hơn 9.000 lính thủy đánh bộ cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện
đại mở cuộc tấn công vào Vạn Tường để “tìm diệt” lực lượng của ta.
Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của
quân ta, sau một ngày chiến đấu ta đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch,
tiêu diệt được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe bọc thép và máy bay của địch.
Chiến thắng Vạn Tường đã mở đầu cho phong trào “tìm Mĩ mà
đánh, tìm ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam. Và đồng thời cho thấy ta có thể
đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ.
2. Đánh
tan hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967
* Mùa
khô 1965 - 1966
Tháng
01/1965, Mĩ-ngụy tập trung lực lượng mở cuộc phản công lần thứ nhất với 72 vạn
quân. địch mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm
diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chính là Đông Nam Bộ và Đồng bằng khu 5
nhằm tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”, giành
lại thế chủ động trên chiến trường.
Với thế trận chiến tranh nhân dân, bằng nhiều hình thức
tác chiến khác nhau đã chặn đánh địch ở khắp mọi hướng, tiến công địch ở mọi
nơi…
Trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại khỏi vòng
chiến hơn 67.000 tên địch, trong đó có 35.000 quân Mĩ và chư hầu, bắn hạ 940
máy bay, phá hủy 600 xe tăng, thiết giáp và trên 1.000 ôtô của địch.
* Mùa khô 1966 - 1967
Mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng lên đến 980.000 quân
(trong đó có 440.000 lính Mĩ và chư hầu), Mĩ đã mở cuộc phản công mùa khô lần
thứ hai nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bược ngoặt
trong chiến tranh.
Chúng đã tiến hành 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó
có 3 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt:
+ At-tơn-bo-rơ đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng
11/1966)
+ Xê-da-phôn đánh vào Trảng Bàng, Bến Súc, Củ Chi (tháng
1/1967)
+ Gian-xơn-city đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng
4/1967)
Quân và
dân Nam bộ đã phối hợp với các chiến trường khác đã mở hàng loạt cuộc phản
công, từng bước đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của địch;
loại khỏi vòng chiến 175.000 tên, trong đó có 76.000 lính Mĩ và chư hầu, phá
hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
3. Đấu tranh chính trị phát triển
Các vùng nông thôn ở miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu
tranh chống kìm kẹp, trừng trị bọn ác ôn, phá vỡ từng mảng “ấp chiến lược” do
chúng lập ra.
Ở các thành thị, công nhân, học sinh, sinh viên, phật tử…
đã nổi lên đấu tranh đòi Mĩ cút về nước, đòi tự do, dân chủ, dân sinh…
Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Câu 87:
Trình bày ý
nghĩa của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực
lượng mới chống Mĩ và chính quền Sài Gòn được mở rộng.
Sau đợt tấn công Tết, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (4/5 –
18/6) và đợt 3 (17/8 – 23/9).
Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng, nhưng do
lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành
lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá
nặng nề.
Tuy vậy, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã
làm cho phong trào phản chiến đòi Mĩ rút quân khỏi Việt Nam ở Mĩ dâng cao, buộc
tổng thống Giôn- xơn phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh, ngừng mọi hoạt
động bắn phá miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta để chấm dứt chiến tranh.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm thất bại hoàn toàn
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 88: Hãy cho biết âm mưu
và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương
hóa chiến tranh”.
Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Ních-xơn đưa ra
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược
miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với hai chiến lược khác ở
Campuchia và Lào là: “Khơme hóa chiến tranh” và “Lào hóa chiến tranh”.
“Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh xâm
lược kiểu mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội tay sai (ngụy
quân) có sự phối hợp của lực lượng chiến đấu Mĩ. Do Mĩ chỉ huy, cung cấp tiền
bạc, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhằm đẩy mạnh các hoạt động
chống phá cách mạng và đàn áp nhân dân ta.
Mĩ đưa ra kế hoạch này để tăng cường sử dụng lực lượng
ngụy quân, thay thế dần vai trò của người Mĩ từ đó rút dần quân viễn chinh và
quân chư hầu về nước nhằm giảm bớt xương máu của người Mĩ trên chiến trường.
Thực chất đây là Mĩ đang tiếp tục âm mưu “dùng người Viêt đánh người Việt”.
Để thực hiện chiến lược này, đế quốc Mĩ đã thực hiện một
loạt các biện pháp sau:
+ Tăng
viện trợ quân sự cho chính quyền tay sai để giúp ngụy quân có thể “tự đứng vững”, “tự gánh vác lấy chiến
tranh”.
+ Tăng
viện trợ kinh tế giúp ngụy quân đẩy mạnh các hoạt động “bình định” lấn chiếm để
giành đất, giành dân với cách mạng.
+ Tăng
cường đầu tư vốn và khoa học kĩ thuật vào phát triển kinh tế miền Nam nhằm lừa
bịp và bóc lột nhân dân ta.
+ Tiến hành “chiến tranh
phá hoại” miền Bắc, mở rộng chiến tranh sang Campuchia (năm 1970) và Lào
(1971), đưa ngụy quân đánh sang Lào
và Campuchia nhằm thực hiện âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông
Dương”.
+ Câu
kết với các nước xã hội chủ nghĩa để cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Câu 89: Miền Nam chiến
đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh”của Mĩ như thế nào?
Trong
những năm đầu, lực lượng cách mạng đã gặp không ít khó khăn và tổn thất do ta
chủ quan trong việc đánh giá âm mưu mới của địch. Nhưng những khó khăn đó đã
từng bước được khắc phục; quân dân hai miền Nam – Bắc đã phát huy những thuận
lợi, chiến đấu chống địch và đã giành được nhiều thắng lợi trên tất cả các mặt
trận:
1. Trên mặt trận chính trị - ngoại giao
Thắng
lợi đầu tiên là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam (6/6/1969). Đây là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam, đã được
23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước chính thức đặt quan hệ
ngoại giao.
Trên khắp các đô thị miền
Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt là
tại Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào của học sinh, sinh viên diễn ra rất rầm
rộ, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham gia.
Tại các vùng nông thôn, phong
trào “phá ấp chiến lược”, chống “bình định nông thôn” diễn ra rất quyết liệt.
Đến đầu năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3.600 “ấp chiến lược”
với hơn 3 triệu dân.
2. Trên mặt trận quân sự
2.1 Đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia
Ngày 18 tháng 3 năm
1970, Mĩ giật dây Lon-non đảo chính Xihanúc và dựng lên chính quyền tay sai của
chúng để cắt đứt con đường tiếp viện qua Campuchia của ta và mở rộng chiến
tranh sang Campuchia để truy quét các cơ quan trung ương cách mạng miền Nam.
Đồng thời, Mĩ còn
mở rộng chiến tranh sang Lào để cô lập cách mạng miền Nam và cắt đứt con đường
tiếp viện chiến lược – đường trường sơn của ta.
Trước tình hình đó,
ngày 24, 25/4/1970, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã họp hội nghị cấp cao
để biểu thị quyết tâm đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
Từ 30/4 đến
30/6/1970, quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với quân cách mạng Campuchia
đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của hơn 10 vạn quân Mĩ – Ngụy Sài
Gòn; loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 quân Mĩ – Ngụy, giải phóng 5 tỉnh Đông Bắc
Campuchia, giam chân một lực lượng lớn quân ngụy Sài Gòn ở đây.
Cũng trong thời
gian trên, quân tình nguyện của ta đã cùng quân dân Lào đập tan cuộc hành quân
lấn chiếm cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng) của Mĩ – Ngụy, giải phóng một vùng rộng
lớn (A-tô-pô, Saravan, Nam Lào).
2.2. Đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mĩ - Ngụy
Đầu năm 1971,
Mĩ-Ngụy mở một cuộc hành quân lớn mang tên Lam Sơn 719 nhằm chiếm giữ đường 9
Nam Lào, cắt tuyến chi viện chiến lược của ta trên đường Trường Sơn.
Từ 12/2/1971 đến
23/3/1971, quân dân ta đã phối hợp với quân dân Lào đánh bại cuộc hành quân
“Lam Sơn 719” của hơn 450.000 quân Mĩ-ngụy, buộc chúng phải rút khỏi đường 9;
giữ vững được tuyến đường chi viện chiến lược của ta.
2.3. Ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972
Phát huy thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị
và ngoại giao trong hai năm 1970 – 1971, ta đã quyết định mở cuộc tiến công
chiến lược trên toàn miền Nam trong năm 1972.
Ngày 30/3/1972, quân ta tấn công vào Quảng Trị, Từ đó mở
rộng tiến công ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972.
Trong năm 1972, Quân ta đã tấn công địch trên quy mô lớn
với cường độ mạnh và ở hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng của địch; chọc
thủng 3 tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ.
Trong 3 tháng đầu, quân ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 20
vạn quân ngụy, giải phóng một vùng lãnh thổ rộng lớn với hơn 1 triệu dân.
Sau đòn tấn công bất ngờ của ta, quân ngụy được sự yểm
trợ của không quân và hải quân Mĩ đã phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt
hại. Đồng thời, Mĩ cũng tiến hành ném bom và bắn phá miền Bắc trở lại.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 cho thấy, quân ngụy
với quân số hơn 1 triệu được trang bị hiện đại vẫn không đủ khả năng để “tự
đứng vững” và “tự gánh vác lấy chiến tranh” khi quân viễn chinh Mĩ rút lui.
Trước tình thế đó, Mĩ đã tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh – tức là
thừa nhận sự thất bại của Việt Nam hóa chiến tranh.
Câu 90: Trình bày diễn
biến của quá trình kí kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam.
Để vượt qua cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm
1972, Ních - xơn đã dùng thủ đoạn lùi bước trên bàn đàm phán và xuống thang
chiến tranh để xoa dịu dư luận Mĩ.
Đầu tháng 10/1972, phái đoàn đàm phán của Mĩ đã đến Paris
để nối lại đàm phán. Các bên đã thỏa thuận ngày sẽ kí kết chính thức vào ngày
31/10/1972.
Ngay sau khi tái đắc cử tổng thống (08/11/1972), Ních-xơn
đã trở mặt, chúng đòi xét lại bản Hiệp định đã được thỏa thuận, theo hướng có
lợi cho chúng.
Để gây sức ép buộc ta phải nhượng bộ, Ních-xơn đã phê
duyệt kế hoạch tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng vào
cuối năm 1972.
Chúng bị quân dân ta đánh bại bằng một trận “Điện Biên
Phủ trên không” và buộc phải trở lại bàn đàm phán.
Ngày 23/01/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được kí tắt; và ngày 27/01/1973 bản hiệp định
được chính thức kí kết.
Ngày 02/3/1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam (gồm 12
nước) đã kí định ước ghi nhận và đảm bảo việc thi hành Hiệp định Paris.
Câu 91: Trình
bày những nội dung cơ bản của hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hoà bình ở Việt Nam (27/01/1973). Ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
- Hoa Kì và các nước cam kết
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
- Hai bên ngừng bắn ở miền Nam
vào lúc 24h00 ngày 27/01/1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự
chống miền Bắc Việt Nam.
- Hoa Kì phải rút hết quân
viễn chinh và quân chư hầu về nước, hủy bỏ hết các căn cứ quân sự, cam kết
không tiếp tục dính líu hay can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt
Nam.
- Nhân dân miền Nam Việt Nam
tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không
có sự can thiệp của nước ngoài.
- Các bên thừa nhận thực tế ở
miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng
chính trị.
- Các bên ngừng bắn tại chỗ,
trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
- Hoa Kì cam kết góp phần vào
việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ
bình thường cùng có lợi với Việt Nam.
Ý nghĩa của Hiệp định
Paris
Là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của
quân và dân ta trên cả hai miền đất nước. Buộc Mĩ phải thừa nhận các quyền dân
tộc cơ bản của nhân dân ta.
Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi
để nhân dân ta tiến lên đánh sụp ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Câu 92: Khái
quát tình hình địch và ta trước cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975.
Sau hiệp định Paris, Miền Bắc trở lại hòa bình; nhân dân
miền Bắc ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế;
đảm bảo khả năng chi viện lớn về sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Lực lượng cách mạng miền Nam đã được phục hồi và phát
triển nhanh chóng.
Trong khi đó ở miền Nam, ngụy quân gặp nhiều khó khăn do
quân đội Mĩ và chư hầu phải rút về nước, viện trợ của Mĩ ngày càng bị cắt giảm.
Như vậy, sau hiệp định Paris, so sánh lực lượng trên
chiến trường miền Nam thay đổi nhanh chóng theo hướng có lợi cho ta.
Câu 93:Trình bày cuộc
đấu tranh chống chiến dịch “bình định lấn chiếm”, tạo thế và lực tiến tới giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngày
29/3/1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rời khỏi nước ta. Tuy vậy, Mĩ vẫn còn duy
trì được chính quyền tay sai (Ngụy quyền) ở miền Nam nên đã giữ lại hơn hai vạn
cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền Ngụy.
Được sự viện trợ và chỉ huy của cố vấn quân sự Mĩ, chính
quyền ngụy ngang nhiên chống phá Hiệp định Paris, chúng đã huy động toàn bộ lực
lượng để thực hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” ngay sau khi hiệp định có
hiệu lực, nhằm đẩy mạnh hoạt động “bình định lấn chiếm” vùng giải phóng.
Trong thời gian đầu, do ta quá nhấn mạnh đến hòa bình và
hòa hợp nên mất cảnh giác; để địch lấn chiếm nhiều địa bàn quan trọng.
Trước tình hình trên, tháng 7 năm 1973, Hội nghị trung
ương 21 đã xác định: “bất kể trong
tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng là con
đường bạo lực. Do đó, phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh
trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao nhằm tiến lên phản công để
giành toàn thắng”.
Từ cuối năm 1973, quân dân ta đã kiên quyết đánh trả
những cuộc hành quân “bình định lấn chiếm” của địch để bảo vệ vùng giải phóng.
Nhiều nơi còn tổ chức tấn công vào những căn cứ xuất phát các cuộc hành quân
của địch, tiếp tục mở rộng vùng giải phóng, củng cố thế chủ động.
Cuối năm 1974 đầu 1975, quân ta mở hoạt động quân sự Đông
- Xuân đánh vào hai hướng chính là đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; giải
phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đường 14 cùng với 50.000 dân và loại khỏi
vòng chiến hơn 3.000 tên địch.
Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, ta đã hợp nhất
các sư đoàn chủ lực thành các quân đoàn lớn, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công
giải phóng hoàn toàn miền Nam:
Tháng 10/1973 lập quân đoàn 1 đóng ở Bắc Bộ.
Tháng 5/1974 lập quân đoàn 2 đóng ở Trị Thiên.
Tháng 7/1974 lập quân đoàn 4 đóng ở Đông Nam Bộ.
Tháng 3/1975 lập quân đoàn 3 đóng ở Tây Nguyên.
Đồng thời với các hoạt động quân sự, quân dân miền Nam
còn đẩy mạnh tấn công địch trên các mặt trận chính trị, ngoại giao... Ở các
vùng giải phóng, nhân dân tích cực khôi phục và đẩy mạnh sản xuất nhằm ổn định
đời sống và tăng nguồn dự trữ chiến lược.
Câu 94: Chủ
trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam của Hội nghị lần thứ 21 của BCH
Trung ương Đảng. Tại sao ta lại chọn Tây Nguyên làm điểm mở đầu cho cuộc tổng
tấn công?
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tương quan lực lượng giữa ta
và địch đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đảng đã họp Hội
nghị Bộ chính trị (30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ chính trị mở rộng
(18/12/1974 đến 8/1/1975) bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam.
Qua hai Hội nghị, Bộ chính trị đã đưa ra và hoàn chỉnh kế
hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Cụ thể là trong năm 1975,
tranh thủ thời cơ bất ngờ ta tấn công địch trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho
năm 1976 sẽ tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền
Nam.
Bên cạnh kế hoạch đó, Bộ chính trị còn nhận định rằng:
“Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ: “nếu thời cơ xuất hiện vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đồng thời Bộ chính
trị còn nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại
về người và của cho nhân dân,… giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Câu 95: Trình
bày bối cảnh, diễn biến, ý nghĩa của cuộc tổng tấn công và nổi dậy xuân 1975.
1. Chiến dịch Tây Nguyên
Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với
chiến trường miền Nam, nhưng do địch nhận định sai về hướng tiến quân của ta
nên đã tập trung lực lượng cho việc bảo vệ Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng; ở Tây
Nguyên, chúng chỉ chốt giữ bằng một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở.
Phát hiện sơ hở đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10/1974
đã quyết định chọn Tây Nguyên đánh trận mở đầu và là hướng tiến công chiến lược
chủ yếu trong năm 1975.
Ta tập trung binh lực lớn cùng với vũ khí, vật chất kĩ
thuật mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 04/3/1975, ta đánh nghi binh
địch ở Kontum và Plâycu để thu hút lực lượng của địch về phía Bắc Tây Nguyên
làm cho việc phòng thủ Đắc Lắc và Buôn Ma Thuột ở phía nam Tây Nguyên trở nên
sơ hở.
Ngày 10/3/1975, ta bất ngờ tấn công vào Buôn Ma Thuột làm
cho địch không kịp trở tay. Sau 2 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng hoàn toàn
thị xã Buôn Mê Thuột.
Thất thủ Buôn Mê Thuột, ngày 12/3/1975, địch cố sức dồn
quân tái chiếm lại vị trí chiến lược này nhưng đã bị ta đánh bại.
Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh rút quân khỏi
Tây Nguyên về giữ vùng ven biển Nam Trung Bộ, chờ cơ hội để tái chiếm lại Tây
Nguyên.
Nắm được kế hoạch rút lui của địch, ta đã bố trí mai phục
và truy kích địch trên đường rút lui làm cho chúng tan rã hòan tòan.
Đến ngày 24/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên
với 60 vạn dân.
Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển cả chiến trường
niềm Nam, làm suy sụp ý chí và tinh thần chiến đấu của Ngụy quân, Ngụy quyền và
đồng thời cho thấy, thời cơ thuận lợi để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
2. Chiến dịch Huế – Đà
Nẵng
Diễn biến thuận lợi của chiến dịch Tây Nguyên cho thấy,
thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi. Bộ chính trị đã kịp thời đưa
ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong Năm 1975; trong đó,
nhiệm vụ trước mắt là giải phóng Huế – Đà Nẵng.
Ngày 19/3 quân ta đã tấn công vào Quảng Trị, địch bỏ
Quảng Trị rút về Huế và Đà Nẵng; sau đó, chúng có dấu hiệu bỏ Huế rút vào cố
thủ ở Đà Nẵng.
Ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ của địch,
đồng thời chặn đường rút chạy của chúng (Quốc lộ 1, Cửa Thuận An và cửa Tư
Hiền).
Ngày 25/3/1975, quân ta tiến thẳng vào cố đô Huế, ngày
26/3 thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng.
Cùng với chiến thắng ở Huế, ngày 24/3/1975, ta giải phóng
Tam Kì, ngày 25/3/1975, giải phóng Quảng Ngãi, ngày 26/3/1975, giải phong Chu
Lai.
Như vậy, đến ngày 26/3/1975, Đà Nẵng – thành phố lớn thứ
hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ – ngụy – bị rơi vào
thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ở đây trở nên hoảng loạn và mất hết khả năng chiến
đấu. Địch đã phải sử dụng máy bay để di tản cố vấn quân sự Mĩ và một bộ phận
Ngụy quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng.
Sáng 29/3/1975, từ cả ba phía Bắc, Tây và Nam, quân ta
tiến vào Đà Nẵng và đến 3 giờ chiều thành phố Đà Nẵng được giải phóng hoàn
toàn.
Cùng lúc với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, sau
khi giải phóng Tây Nguyên, lực lượng của ta đã tiến xuống giải phóng các tỉnh
ven biển miền Trung: Quy Nhơn, Phú Yên (01/4/1975), Khánh Hòa (03/4/1975) …
Như vậy, đến đầu tháng 4
năm 1975, ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liên tục từ Quảng Trị đến
Khánh Hòa.
LƯỢC ĐỒ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
3. Chiến dịch Hồ Chí Minh
Sau khi thất bại liên tiếp ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, địch lùi về lập
tuyến phòng thủ từ xa (Phan Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh) để bảo về Sài Gòn.
Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình, ngày 25/3/1975, Bộ
chính trị đã họp và nhận định: “Thời
cơ cách mạng đã đến,… phải tập trung lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa
mưa” và quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên “Chiến
dịch Hồ Chí Minh”.
Ngày 08/4/1975, Bộ chỉ huy “Chiến dịch Hồ Chí Minh” đã được thành lập,
với 5 quân đoàn và chuẩn bị ra quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh
thắng”, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Ngày 09/4/1975, quân ta bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc – hệ thống phòng
thủ quan trọng nhất bảo vệ Sài Gòn của địch.
Ngày 16/4/1975, quân ta phá tan tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang,
tiếp đó là Bình Thuận, Bình Tuy.
Ngày 18/4/1975, Tổng thống Mĩ đã ra lệnh di tản toàn bộ người Mĩ ra khỏi
Sài Gòn.
Ngày 21/4/1975, Xuân Lộc thất thủ, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc đã tháo
chạy, quân ta từ các hướng nhanh chóng áp sát Sài Gòn. Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đã tuyên bố từ chức cùng ngày (21/4/1975).
Ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tấn công Sài Gòn, tất cả 5 cánh quân
từ các hướng nhanh chóng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào
Sài Gòn.
Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/1975, quân ta tấn công vào trung tâm thành
phố, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.
Đến 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến thẳng vào Dinh độc lập,
bắt sống toàn bộ Ngụy quyền trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không
điều kiện vào lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày. Chiến dịch Hồ Chí Mính kết thúc
hoàn toàn thắng lợi.
Thừa thắng, nhân dân các tỉnh còn lại trên khắp miền Nam đã đồng loạt
nổi dậy tấn công địch.Đến ngày 02/ 5/1975, miền Nam đã hoàn toàn được giải
phóng.
Câu 96: Trình bày kết quả, ý nghĩa và nguyên
nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
1. Kết quả
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đập tan bộ máy chính quyền tay sai của Mĩ, đánh bại hoàn toàn âm mưu xâm lược
của Mĩ ở miền Nam Việt Nam qua 5 đời tổng thống với 4 chiến lược chiến tranh và
kéo dài 21 năm.
2. Ý nghĩa lịch sử
2.1. Đối với dân tộc
Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, giải phóng trọn
vẹn miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
Kết thúc 21 năm chống Mĩ, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc
tay sai, rửa sạch nỗi nhục mất nước hơn một thế kỉ của dân tộc.
Mở ra một kỉ nguyên mới của cách mạng Việt Nam: độc lập, thống nhất, đi
lên XHCN.
Cùng với chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, đại
thắng mùa xuân 1975 đã cắm thêm một mốc vinh quang chói lọi trong quá trình đi
lên của lịch sử Việt Nam.
2.2. Đối với quốc tế
Đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử 200 năm của Mĩ, tác động mạnh
đến nội tình nước Mĩ và cục diện thế giới.
Đây là một thắng lợi có tính có tính chất thời đại, làm phá sản học
thuyết Ni - xon, đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ và đồng minh, thu hẹp và
làm yếu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
3. Nguyên nhân thắng lợi
3.1. Chủ quan
Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh với đường lối quân sự, chính trị độc lập, tự chủ đúng đắn và
sáng tạo. Đó là đường lối tiến hành đồng thời Cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam và Cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết và chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của dân tộc được khơi dậy và phát huy một cách tối đa, tạo nên sức
mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam.
Miền Bắc đảm bảo nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện kịp thời về sức người
sức của, tiếp thêm sức mạnh cho cách mạng miền Nam.
Ngoài ra, tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương cũng đã góp phần
làm nên thắng lợi của mỗi nước.
3.2. Khách quan
Nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCH anh em.
Sự đồng tình ủng hộ của phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân
tộc và các lực lượng dân chủ hòa bình thế giới trong đó có nhân dân Mĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét